15/09/2018 08:03

Rút kinh nghiệm vụ án “tranh chấp xác định phần quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thời kỳ hôn nhân”

Rút kinh nghiệm vụ án “tranh chấp xác định phần quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thời kỳ hôn nhân”

Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Thông báo số 30/TB-VKS-DS ngày 29/8/2018 rút kinh nghiệm vụ án hôn nhân và gia đình: “tranh chấp xác định phần quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thời kỳ hôn nhân” do Tòa án nhân dân (TAND) hai cấp tỉnh K giải quyết.

Nội dung vụ án

Ông Lê Văn Đề và bà Hồ Thị Như L kết hôn năm 1988, có 02 người con anh Lê Văn H (sinh năm 1989), chị Lê Thị Phương Tr (sinh năm 1994). Quá trình sinh sống theo nguyên đơn trình bày, năm 2004, gia đình ông Đ đã tạo dựng được nhà đất tại số 89 Hoàng Văn T, thành phố K, tỉnh K và xây dựng nhà vào các năm 2011, 2012, 2015. Ngày 20/4/2015, UBND thành phố K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX715960 đứng tên là Hồ Thị Như L, diện tích đất 333,6m2, diện tích xây dựng 314,35m2, diện tích sàn 1657,5m2.

Do bà L có nhiều khoản nợ với các bà Đinh Thị Kim T, bà Vũ Thị H, bà N Thị Thanh H, bà Trương Thị L, bà Dương Thị Thu T, bà Đỗ Thị Tuyết N, bà Nguyễn Thị S và đã được giải quyết bằng các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật buộc bà Liên phải thanh toán cho những cá nhân này nên bị Cục thi hành án dân sự tỉnh K ra Quyết định số 68/QĐ-CCTHA ngày 26/3/2015 kê biên toàn bộ nhà đất nói trên. Ông Lê Văn Đ không đồng ý với quyết định kê biên này nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định đây là tài sản chung của vợ chồng ông Đề, bà L và các con là anh Lê Văn H và chị Lê Thị Phương T với giá trị 18.000.000.000 đồng (đất 10 tỷ, nhà 08 tỷ) và đề nghị Tòa án xác định phần quyền sở hữu, sử dụng của ông Đề là 30%, bà L 30%, anh H 25%, chị T 15%. Đồng thời, Tòa án cũng xác định các bà T, bà H, bà H, bà L, bà T, bà N, bà S là những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này.

Qua trình giải quyết, bà L, anh H và chị T đều đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Theo anh Hưng trình bày, từ nhỏ, anh được những người thân trong gia đình cho tiền để mua tài sản. Năm 2012, anh H là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần S, đã chuyển số tiền 4.385.300.000 đồng cho cha mẹ để xây dựng căn nhà 89 Hoàng Văn Th. Theo chị Trinh trình bày, từ nhỏ, chị cũng được những người thân trong gia đình cho tiền, lì xì để mua tài sản và kinh doanh thêm khi đang đi học. Tổng cộng số tiền chị Trinh góp xây nhà là 1.505.000.000 đồng. Nhưng những người có quyền và nghĩa vụ liên quan không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì cho rằng bà L đã vay tiền của họ để xây nhà 89 Hoàng Văn Thụ nên ông Đ, bà L phải bán nhà đất này để trả cho các bà ấy.

Quyết định của Tòa án

Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 07/2016/HNGĐ-ST ngày 27/1/2016 của TAND thành phố K quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Đề; công nhận quyền sử dụng diện tích đất tại số 89 Hoàng Văn T, thành phố K là tài sản chung của ông Lê Văn Đ, bà Hồ Thị Như L, anh Lê Văn H và chị Lê Thị Phương T. Ông Đ, bà L mỗi người được quyền sở hữu, sử dụng 33,735%; anh Hưng được quyền sở hữu, sử dụng 24,17%; chị Trinh được quyền sở hữu, sử dụng 8,36% giá trị tài sản trên.

Trong thời hạn luật định, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan bà T, bà H, bà H, bà L, bà T, bà N, bà S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; VKSND tỉnh K kháng nghị bản án sơ thẩm.

Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2016/HNGĐ-PT ngày 20/6/2016 của TAND tỉnh K quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của người liên quan, chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh K; công nhận quyền sử dụng diện tích đất tại số 89 Hoàng Văn Thụ là tài sản chung của ông Lê Văn Đ, bà Hồ Thị Như L; ông Đ, bà L mỗi người được quản lý, sử dụng 50% diện tích thửa đất nêu trên; công nhận quyền sở hữu nhà tại 89 Hoàng Văn Thụ, thành phố K là tài sản chung của ông Lê Văn Đ, bà Hồ Thị Như L, anh Lê Văn H và chị Lê Thị Phương T. Ông Đề, bà L mỗi người được sở hữu 13,4%, anh Hưng được sở hữu 54,386%, chị T được sở hữu 18,81% giá trị căn nhà.

Ngày 12/7/2016, những người có quyền lợi liên quan bà T, bà H, bà H, bà L, bà T, bà N, bà S có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm này, vì cho rằng thời điểm xây dựng nhà, anh H, chị L đều còn đi học, không có khả năng góp tiền xây dựng nhà, việc phân chia tài sản là để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Tại quyết định giám đốc thẩm số 03/2018/HNGĐ-GĐT ngày 08/6/2018, TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 02/2018/KN-HNGĐ ngày 10/4/2018 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng, tuyên: “Hủy toàn bộ Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2016/HNGĐ-PT ngày 20/6/2016 của TAND tỉnh K và Bản án hôn nhân và gia đình số 07/2016/HNGĐ-ST ngày 27/1/2016 của TAND thành phố K, tỉnh K”.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Còn nhiều mâu thuẫn trong việc xác định phần quyền tài sản của anh Lê Văn H: Anh Lê Văn H là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần S tiếp thị mạng. Năm 2012, anh Hưng đã chuyển số tiền 4.385.300.000 đồng cho ông Đ. Nhưng Tòa án không yêu cầu anh Hưng cung cấp các tài liệu liên quan đến Báo cáo tài chính trong năm 2012 của Công ty cổ phần S tiếp thị mạng để đối chiếu; không làm rõ trong tổng số tiền nêu trên, anh Hưng chuyển cho ông Đề để góp xây nhà, để làm ăn là bao nhiêu để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án là không thực hiện đúng quy định tại Điều 97 BLTTDS về xác minh, thu thập chứng cứ. Mặt khác, anh Hưng trình bày số tiền này có được là do kết quả kinh doanh gặp nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, tại “Đơn xin miễn giảm án phí”, anh Hưng lại trình bày: “bản thân mới ra trường, đang trong giai đoạn vừa học vừa làm, tiền lương, tiền công chỉ đủ trang trải hàng ngày, nên không có khả năng nộp tiền án phí...”. Như vậy, lời khai của anh Hưng về khả năng tài chính mâu thuẫn, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không làm rõ mâu thuẫn này là thiếu sót.

Mâu thuẫn trong việc xác định phần quyền tài sản của chị Lê Thị Phương T: Chị T trình bày số tiền góp cho cha, mẹ xây nhà có được là do những người thân trong gia đình cho, tiền lì xì và kinh doanh thêm khi đang đi học. Theo các “Giấy cho tiền”, chị trinh được tặng cho tổng cộng 650.000.000 đồng, nhưng số tiền chị Trinh góp xây nhà là 1.505.000.000 đồng. Vậy nguồn gốc số tiền còn lại từ đâu mà có?  Chị Trinh cho rằng chị kinh doanh thêm khi là sinh viên trong khi chị Trinh sinh năm 1994, đến năm 2011 mới là sinh viên thì trong thời gian ngắn, chị Trinh kinh doanh đã có lãi bao nhiêu tiền và từ tháng 11/2011 chuyển tiền cho ông Đề có hợp lý không? Mặt khác, chị Trinh học và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh và chuyển tiền về cho ông Đề từ thành phố Hồ Chí Minh, nhưng các chứng từ giao dịch lại thể hiện chị Trinh trực tiếp nộp tiền tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh K. Mâu thuẫn này cũng không được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác minh làm rõ.

Việc tặng cho tiền cũng còn có nhiều mâu thuẫn: Tại các giấy cho tiền, ngày 10/3/2004, ông Hồ Hữu Cường (cậu ruột) cho anh Hưng, chị Trinh mỗi người 150.000.000 đồng; ngày 15/10/2004, ông Hồ Hữu Hùng (ông ngoại) cho anh Hưng, chị Trinh mỗi người 200.000.000 đồng; ngày 10/7/2004 và ngày 01/11/2004, bà Thân Thị Bưởi (bà ngoại) cho anh Hưng, chị Trinh mỗi người 100.000.000 đồng; ngày 16/8/2006, ông Hồ Hữu Hiền (cậu ruột) cho anh H, chị T mỗi người 150.000.000 đồng; ngày 07/10/2007, bà Hồ Thị Mai L (dì ruột) cho anh Hưng, chị T mỗi người 50.000.000 đồng. Những người này đều có quan hệ thân thích với nhau, không có ai chứng kiến. Ông, bà ngoại, cậu, dì của anh Hưng, chị T đều xác định việc cho tiền là để cảm ơn bà Liên đã nuôi dưỡng và chu cấp tiền ăn học nhưng lại tặng cho anh Hưng, chị Trinh số tiền rất lớn. Mặt khác, việc tặng cho tiền được thể hiện bằng văn bản, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm phải xác minh, làm rõ thu nhập, điều kiện kinh tế của bên tặng cho để xác định việc ông, bà cậu, dì cho anh H, chị T số tiền lớn như vậy có đúng thực tế không và trưng cầu giám định các “Giấy cho tiền” để xác định tuổi mực, thời điểm viết có đúng từ năm 2003 - 2007 (hay mới được viết sau này để hợp thức hóa nguồn tiền?). Từ đó, Tòa án mới có cơ sở để xác định có hay không việc anh H, chị T đóng góp tiền cho ông Đ, bà L.

Mặc dù chưa làm rõ những vấn đề nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã công nhận căn nhà và quyền sử dụng đất tại 89 Hoàng Văn Thụ thuộc quyền ở hữu chung của 04 người và xác định tỷ lệ sở hữu cho từng người, Tòa án cấp phúc thẩm công nhận căn nhà tại số 89 Hoàng Văn Thụ thuộc quyền sở hữu chung của 04 người và xác định tỷ lệ sở hữu căn nhà cho từng người là chưa đủ căn cứ vững chắc, có dấu hiệu tẩu tán tài sản, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

8798

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]