Dưới đây là một trường hợp điển hình việc tặng nhà cho con riêng, cụ thể:
Bản án 04/2017/HNGĐ-ST ngày 07/05/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án về tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa nguyên đơn bà Phan Thị Thu C và bị đơn ông Trần Thế D.
" Hiện nay, bà Phan Thị Thu C và ông Trần Thế D là vợ chồng hợp pháp.
Trước năm 2006 bà C và ông Trương Đắc Th là vợ chồng nhưng đã ly hôn vào năm 2006. Khi ly hôn, bà và ông Th thống nhất thỏa thuận tự phân chia căn nhà và đất tại số 11 Nguyễn Văn Trỗi - Thạnh Mỹ là tài sản chung giữa bà và ông Th có trong thời kỳ hôn nhân. Theo thỏa thuận sau khi ly hôn bà nhận căn nhà và đất.
Đến năm 2007, bà kết hôn với ông Trần Thế D, có đăng ký kết hôn. Bà C chung sống với ông Trần Thế D từ tháng 11/2007 cho đến nay tại căn nhà số 11 Nguyễn Văn Trỗi - Thạnh Mỹ. Năm 2008, bà liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kê khai để cấp lại diện tích đất 200m2 đất thổ cư, trên đất có căn nhà số 11 Nguyễn Văn Trỗi. Hiện nay, bà muốn tặng cho toàn bộ tài sản là căn nhà và diện tích đất tại số 11 Nguyễn Văn Trỗi cho con gái riêng của bà với ông Trương Đắc Th là Trương Thùy Trang.
Nhưng, do diện tích đất trên bà đã đăng ký kê khai và cấp lại vào năm 2008, thời gian này bà và ông Trần Thế D là vợ chồng hợp pháp nên thủ tục tặng cho đòi hỏi phải có sự đồng ý của ông D. Bà đã nhiều lần thuyết phục ông D đến Văn phòng công chứng ký giấy tờ để tặng cho Trương Thùy Trang nhưng ông D không đồng ý" .
Vì vậy, bà đề nghị Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà và ông D và đề nghị Tòa án giải quyết công nhận căn nhà và diện tích đất tại số 11 Nguyễn Văn Trỗi - Thạnh Mỹ là tài sản riêng của bà có trong thời kỳ hôn nhân với ông Trần Thế D.
Tòa án nhân dân huyện Đơn D đã áp dụng Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình, xác định căn nhà và diện tích đất tại số 11 Nguyễn Văn Trỗi là tài sản riêng của bà Phan Thị Thu C có trước khi kết hôn với ông Trần Thế D.
Đối chiếu với quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình như sau:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Bà C đăng ký quyền sử dụng đất vào năm 2008, theo quy định của pháp luật thì đây là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa bà C và ông D. Khi thực hiện các giao dịch liên quan đến mảnh đất này đòi hỏi phải có sự đồng ý của ông D. Tuy nhiên, trong trường hợp này, căn nhà và đất tại số 11 Nguyễn Văn Trỗi là tài sản bà C có được sau khi ly hôn với chồng cũ. Trong thời gian chung sống giữa bà và ông D không cải tạo, sửa đổi nâng cấp nhà và diện tích đất. Bà hoàn toàn có căn cứ để chứng minh căn nhà và đất này là tài sản riêng của mình.
Bà C đã được tòa án công nhận mảnh đất và ngôi nhà trên đất là tài sản riêng, vì vậy bà C có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình. Bà hoàn toàn có thể tặng tài sản này cho con gái mà không cần sự đồng ý của chồng mình.
Như vậy, khi vợ hoặc chồng muốn tặng cho tài sản cho một người khác, mặc dù không có sự đồng ý của người còn lại, nhưng nếu chứng minh được tài sản đó là tài sản riêng của mình, thì người tặng cho hoàn toàn có quyền định đạt tài sản đó.