04/04/2022 13:41

Sự cần thiết xây dựng chế định ly thân trong pháp luật Việt Nam

Sự cần thiết xây dựng chế định ly thân trong pháp luật Việt Nam

Trên thực tế hiện nay việc ly thân diễn ra khá nhiều, với thời gian không ngắn, có những cặp vợ chồng đã duy trì tình trạng ly thân đến 4-5 năm trước khi đi đến quyết định ly hôn. Vì thế, việc nghiên cứu xây dựng chế định ly thân trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là cần thiết và có ý nghĩa trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay ở nước ta, nhằm giải quyết các vấn đề nảy sinh từ tình trạng ly thân trong thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng và các con.

1. Sự cần thiết quy định chế định ly thân trong pháp luật Việt Nam hiện nay

1.1 Sự phát triển của các quan hệ hôn nhân và gia đình hiện nay

Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay có sự khác biệt cơ bản so với các giai đoạn trước đây, điều này tác động không nhỏ đến quan hệ HNGĐ. Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và giao lưu văn hóa làm xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Có thể thấy rằng, bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá khá cao tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích ứng với sự thay đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng. Cùng với đó là những thay đổi trong quan niệm về việc sống chung hoặc riêng trong gia đình. Sự xuất hiện các nhân tố mới, như di cư lao động, tôn trọng tự do cá nhân, sự độc lập về kinh tế giữa bố mẹ và con cái trong đời sống gia đình hiện đại cũng góp phần làm chuyển dịch từ gia đình lớn nhiều thế hệ (ông bà - cha mẹ - con cháu) sang gia đình nhỏ (1 hoặc 2 thế hệ).

Sự khác biệt quan điểm về hôn nhân của xã hội hiện nay so với xã hội thời kỳ trước đây còn thể hiện ở việc: Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng có con thức phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay, hôn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng với sự tiếp nhận văn hóa đa phương cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hôn và có con. Từ đó, xu hướng làm mẹ đơn thân đang tăng dần và ngày càng dễ gặp và dễ chấp nhận. Việc này phần nào làm cho tỷ lệ ly hôn/ly thân tăng lên bởi người phụ nữ không bị quả bỏ buộc vào những giá trị truyền thống, họ cũng độc lập hơn về kinh tế và tư tưởng, dẫn đến việc họ tự quyết việc ly hôn/ly thân dễ dàng hơn.

​​​​​​1.2. Các quan điểm về điều chỉnh pháp luật ly thân tại Việt Nam

Quan điểm thứ nhất: Không nên công nhận ly thân pháp lý. Người ủng hộ ý kiến này cho rằng:

Văn hóa Việt Nam coi trọng tình cảm gia đình, có mâu thuẫn thì vợ chồng thường “đóng cửa bảo nhau”, hai bên họ hàng trao đổi nội bộ để tìm cách giải quyết. Chuyện vợ chồng đưa nhau ra Tòa án giải quyết mâu thuẫn bị xem là điều tối kỵ, chỉ nên áp dụng khi hôn nhân không thể cứu vẫn được nữa (cả hai đã quyết định ly hôn). Nếu tạo ra “chế định ly thân” thì vợ chồng sẽ phải đưa nhau ra Tòa án để đăng ký ly thân, việc Tòa án can thiệp vào quan hệ vợ - chồng khi họ chưa có ý định ly hôn là điều tối kỵ đối với văn hóa Việt Nam. Việc đó không chỉ gây thêm tổn thương cho tình nghĩa vợ chồng mà còn ảnh hưởng xấu đến tâm lý của con cái, họ hàng hai bên nội - ngoại.

Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân Việt Nam là “nguyên tắc tự nguyện”. Tự nguyện ở đây bao gồm cả việc tự nguyện trong giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng. Các cặp vợ chồng chọn ly thân như giải pháp tạm thời để giải quyết mâu thuẫn khi cảm thấy hôn nhân chưa bế tắc đến mức phải ly hôn, trong thời gian ly thân họ sẽ tĩnh tâm, suy nghĩ kỹ lại những rạn nứt để có thể hàn gắn quan hệ và yêu thương nhau hơn. Có nhiều trường hợp ly thân chỉ có vợ chồng biết với nhau, họ giấu chuyện đó với con cái, gia đình, họ hàng để không ảnh hưởng tới tâm lý, tình cảm của người thân. Nếu Luật hôn nhân gia đình “hành chính hóa” việc ly thân, yêu cầu vợ chồng phải đưa nhau ra Tòa án để tiến hành thủ tục ly thân thì rất có thể sẽ khoét sâu hơn mâu thuẫn vợ - chồng và khiến họ nhanh chóng tiến tới ly hôn.

Trên thực tế rất khó để Tòa án xác định một cặp vợ chồng đang trong tình trạng ly thân vì đây là quan hệ rất riêng tư. Có những cặp vợ chồng tuy sống cùng một nhà nhưng họ vẫn ly thân (không ăn chung, ngủ chung). Ngược lại, sẽ có những cặp vợ chồng tuyên bố ly thân tại Tòa nhưng chỉ sau một thời gian ngắn họ quay lại chung sống với nhau và không thông báo với Tòa án. Với đặc điểm của văn hóa Việt Nam, rất ít người muốn công khai tình trạng ly thân và càng không muốn Tòa án can thiệp vào. Do đó, việc quy định “chế định ly thân” là thiếu cơ sở, không có tính khả thi về mặt thực tiễn.

Quan điểm thứ hai đây cũng là quan điểm tác giả cho rằng, nên bổ sung chế định ly thân vào Luật Hôn nhân gia đình. Bởi những lập luận sau đây:

Nếu không quy định ly thân thì không có cơ sở để bảo vệ quyền lợi của các bên khi phát sinh tranh chấp. Như chúng ta đều biết, ly thân hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của đôi bên và việc thực hiện đúng như những cam kết cũng chỉ xuất phát từ sự tự nguyện đó. Do vậy, khi một trong hai bên tự ý thay đổi thỏa thuận, gây phương hại đến lợi ích của bên còn lại thì hoàn toàn không có cơ sở để bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại.

Pháp luật hiện hành không giúp giải quyết được triệt để vấn đề. Quy định pháp luật hiện hành cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014) và các bên có quyền thỏa thuận về việc không sống chung với nhau (khoản 2 Điều 19 Luật HNGĐ năm 2014). Về bản chất đây không phải là những quy định có thể thay thế và giải quyết được về việc ly thân giữa vợ, chồng mà chỉ là những quy định nhằm giúp cho vợ, chồng có sự thuận lợi hơn trong đời sống hôn nhân. Hơn nữa, ly thân về bản chất là chấm dứt đời sống tình cảm chứ không phải chấm dứt về tình trạng tài sản hay không gian sống, nơi sống. Ngoài ra, quy định về ly thân giúp xác định trách nhiệm, nghĩa vụ tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng một cách minh bạch, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của các con, các thành viên khác trong gia đình.

Ly thân là tình trạng vợ chồng không có nghĩa vụ chung sống với nhau do cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của hai vợ chồng hoặc của vợ, chồng, từ đó sẽ giúp hỗ trợ cho vợ, chồng là nạn nhân của bạo lực gia đình về thể xác hoặc tình dục tránh được những hành vi xâm phạm từ chồng hoặc vợ mình; góp phần bảo đảm tính khả thi của các quy định có liên quan trọng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Mặt khác, ly thân có thể giúp cho vợ, chồng (đặc biệt người phụ nữ) ở các gia đình có mâu thuẫn hoặc bạo lực vẫn được hưởng các chế độ an sinh xã hội trong hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Trong thực tiễn đời sống xã hội, khi cần ly thân, người dân có thể có nguyện vọng lựa chọn giải quyết ly thân theo hai phương thức: Ly thân thực tế hoặc ly thân pháp lý, nếu thấy việc ly thân pháp lý mang lại lợi ích cho mình thì họ mong muốn cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết ly thân theo yêu cầu. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định về ly thân cho nên nguyện vọng chính đáng trên không thực hiện được. Việc Luật HNGĐ công nhận, thực hiện quyền yêu cầu của người dân về ly thân thực chất cụ thể hóa quy định của Luật HNGĐ hiện hành về trách nhiệm của nhà nước có chính sách, biện pháp tạo điều kiện để người dân xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, trong đó có quyền tự nguyện về giải quyết mâu thuẫn trong hôn nhân của mình. Mặt khác, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của người dân về ly thân, qua đó, vừa bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của người dân vừa góp phần ổn định các quan hệ gia đình và các quan xã hội khác có liên quan.

Tại Mục khuyến nghị về đảm bảo bình quyền trong hôn nhân, ly thân và ly hôn của Bản khuyến nghị chung của Liên hợp quốc về Dự thảo Luật HNGĐ sửa đổi (bản Dự thảo ngày 07/02/2014) chỉ rõ rằng: “Tại Điều 23a, chúng tôi đề nghị giữ quy định về ly thân để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ khi ly thân”.

Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng: “Ly thân là vấn đề thực tiễn ở Việt Nam. Pháp luật không thể né tránh thực tiễn và nhu cầu này của người dân, đặc biệt trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em”. Theo Bộ trưởng, trong thực tế, khi cần ly thân, người dân có thể có nguyện vọng lựa chọn ly thân thực tế hoặc ly thân pháp lý, nếu thấy việc ly thân pháp lý mang lại lợi ích cho mình thì họ mong muốn có sự công nhận của nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định về ly thân cho nên nguyện vọng chính đáng đỏ không thực hiện được.

Tóm lại, những ý kiến cho rằng không nên quy định ly thân khi vấn đề này được đem ra thảo luận là chưa bao quát thực tiễn, một số lập luận chủ quan, mang tính chất cảm tính. Điều này xuất phát từ việc không hiểu rõ bản chất của quan hệ dân sự nói chung và quan hệ HNGĐ nói riêng (dễ hiểu nhầm sang việc quy định ly thân là “hành chính hóa” quan hệ dân sự). Do đó, những lập luận này không bao quát được vấn đề, khiên cưỡng và không nhìn thẳng vào thực tiễn.

2. Đề xuất một số nội dung chế định ly thân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Cần xây dựng chế định ly thân có tính dự liệu, dự báo, bao quát thực tiễn và kỹ thuật lập pháp tiến bộ, phù hợp, thống nhất với tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng; tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các ngành luật và giữa các chế định trong luật HNGĐ. Chế định ly thân trong Luật HNGĐ Việt Nam cần có những nội dung cơ bản sau:

2.1. Căn cứ ly hôn

Để đồng bộ căn cứ ly hôn theo Luật HNGĐ năm 2014, cần quy định căn cứ ly thân như sau:

Căn cứ thuận tình ly thân: Trong trường hợp vợ chồng lựa chọn phương thức thuận tình ly thân không qua tố tụng để đảm bảo sự riêng tư, họ cần đến văn phòng công chứng để công chứng văn bản thỏa thuận ly thân đó; việc ly thân có hiệu lực kể từ ngày vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Vợ chồng cần lập văn bản có công chứng thỏa thuận về con chung, tài sản, cấp dưỡng, quyền và nghĩa vụ mỗi bên trong thời gian ly thân. Trong quá trình thực hiện thỏa thuận ly thân đó, nếu một bên (hoặc các bên) vi phạm thỏa thuận thì họ vẫn có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi đó, đương sự có yêu cầu phải chứng minh họ đã ly thân và có thỏa thuận trên thực tế (chứng cứ là văn bản thỏa thuận đã công chứng).

Khi vợ chồng thuận tình ly thân, sự tự nguyện của hai vợ chồng là một căn cứ quyết định, thông qua con đường tố tụng hoặc văn bản công chứng. Bảo đảm “thật sự tự nguyện ly thân” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly thân. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly thân của vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, đòi hỏi vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly thân.

Một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly thân: Trường hợp ly thân khi có yêu cầu của một bên thì căn cứ vào: Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung gặp nhiều khó khăn, mục đích của hôn nhân khó đạt được nhưng chưa muốn ly hôn.

Khi vợ chồng có hành vi bạo lực thì việc giải quyết ly thân còn nhằm giảm thiểu tình trạng tiếp tục bị bạo lực, hạn chế hậu quả của bạo lực, đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe cho nạn nhân. Điều này cũng tương thích với quy định về biện pháp cấm tiếp xúc trong Luật phòng, chống bạo lực gia đình.

Lúc này, Thẩm phán cần xem xét yếu tố lỗi của mỗi bên để ra quyết định cho ly thân hay không. Bởi rõ ràng Luật HNGĐ năm 2014 đã đưa yếu tố lỗi để xem xét cho ly hôn (với điều kiện yếu tố lỗi phải có mối quan hệ nhân quả với tình trạng trầm trọng của vợ chồng – theo khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ năm 2014). Vì vậy, yếu tố lỗi đương nhiên được xét đến để giải quyết ly thân. Đây cũng là căn cứ quan trọng đế Thẩm phán quyết định về quyền và nghĩa vụ mỗi bên khi ly thân.

Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của cha, mẹ với con: Trên thực tế có rất nhiều trường hợp người cha hoặc mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đối với con cái, đặc biệt là vi phạm các nghĩa vụ tại Điều 69 Luật HNGĐ năm 2014. Xét trên phương diện pháp lý, theo quy định pháp luật hiện hành thì người mẹ chỉ có thể thực hiện được việc ngăn cách người con với người cha bằng biện pháp ly hôn. Tuy nhiên, nếu như trường hợp vợ chồng vẫn còn tình cảm, người vợ hoàn toàn không muốn ly hôn chồng mà vẫn muốn bảo vệ người con thi pháp luật sẽ xử lý ra sao? Rõ ràng trong tình huống này chế định ly thân sẽ là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề trên. Người vợ hoàn toàn có quyền sử dụng căn cứ “Người cha vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ với con” để thực hiện quyền ly thân.

Có căn cứ về việc chồng (vợ) có hành vi bạo lực gia đình đối với vợ (chồng) bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của vợ (chồng) nhưng không đến mức phải ly hôn: Trong trường hợp này, cha, mẹ, người thân thích khác của người bị tâm thần, người bị bệnh không thể nhận thức, làm chủ hành vi cần đưa ra căn cứ chứng minh rằng người còn lại có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người yếu thế (lả vợ hoặc chồng bị bạo lực), nhưng không đến mức phải ly hôn (hay có căn cứ cho thấy ly thân là có thể chấm dứt được tình trạng bạo lực đó). Điểm mấu chốt của quy định này là nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng cho bên yếu thế khi thấy tình trạng hôn nhân hiện tại khó khăn, nhưng vẫn có thể tiếp tục duy trì mà không cần thiết phải ly hôn (bởi có căn cứ cho rằng ly thân sẽ chấm dứt được tình trạng bạo lực gia đình đó).

​​​​​​​2.2. Hệ quả pháp lý của ly thân

Quan hệ nhân thân khi vợ chồng ly thân: Khi ly thân, vợ chồng chỉ chấm dứt nghĩa vụ sống chung mà không chấm dứt quan hệ vợ chồng. Theo đó, vợ chồng phải tuân thủ quy định của Luật HNGĐ về nghĩa vụ chung thủy và chế độ một vợ một chồng. Nghiêm cấm hành vi ngoại tình hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mà làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng hôn nhân khi ly thân, đẩy cuộc hôn nhân dễ hoặc nhanh hơn đến ly hôn. Nếu một trong hai bên cổ tình vi phạm nghĩa vụ này thì được xem là một trong những căn cứ lỗi cho phép ly hôn khi vợ chồng đang trong giai đoạn ly thân, đồng thời đây cũng là căn cứ để xem xét đến vấn đề tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Bên cạnh đó, Luật HNGĐ cũng cần quy định về nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau giữa vợ và chồng khi ly thân. Do đây là thời gian pháp luật cho phép vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ chung sống nên giữa họ sẽ giảm độ gắn kết về tình cảm, không còn quan tâm, yêu thương, giúp đỡ nhau thường xuyên như khi còn hòa thuận. Tuy nhiên, không thể phủ nhận họ vẫn là vợ chồng trước pháp luật, nên Tòa án cũng cần quy định những nghĩa vụ tối thiểu về quan tâm, giúp đỡ nhau của vợ chồng. Đặc biệt, vợ hoặc chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho đối phương nếu họ ở tình trạng khó khăn về kinh tế, không thể tự trang trải cuộc sống, dựa trên nền tảng là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp vợ chồng hàn gắn tình cảm.

Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng: Nếu vợ chồng thiết lập chế độ tài sản theo thỏa thuận thì sẽ thực hiện theo thỏa thuận đó. Tất nhiên các thỏa thuận này phải đảm bảo các nguyên tắc chung của luật dân sự, không làm phương hại đến quyền, lợi ích chính đáng của bên thứ ba trong giao dịch dân sự; đảm bảo vợ chồng hoàn toàn tự nguyện khi thiết lập thỏa thuận (không bị lừa dối, cưỡng ép, đe dọa, nhầm lẫn). Nếu các thỏa thuận này vi phạm những điều trên và có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án có thể tuyên những điều khoản vi phạm vô hiệu. Nếu vợ chồng không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được về tài sản mà có yêu cầu thì Tòa án áp dụng quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để giải quyết. Kể từ ngày việc ly thân có hiệu lực, vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản mà mỗi bên có được và chịu trách nhiệm riêng về những nghĩa vụ mà mình xác lập, thực hiện, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Cụ thể, trong trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận khác thì những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Phần tài sản chung chưa chia; hoa lợi, lợi tức của những tài sản này và những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.

Về quyền của cha mẹ và con khi vợ chồng ly thân: Khi ly thân, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, quan tâm, trông nom, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Theo đó, dù chấm dứt nghĩa vụ sống chung, hai bên vẫn có nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, quan tâm, trông nom, giáo dục con cái. Vợ chồng có thể thỏa thuận về việc ai là người sống chung với con chưa thành niên, con bị khiếm khuyết về thể chất không thể tự sống riêng độc lập, cách thức thăm nom, giáo dục con... Nếu vợ chồng không thể tự thỏa thuận hoặc thỏa thuận nhưng xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của con thì Tòa án quyết định vấn đề này.

Bên cạnh đó, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Để đồng bộ với chế định ly hôn, pháp luật cũng cần quy định khi vợ chồng ly thân, con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên có quyền nêu ý kiến về muốn sống chung với bố hay mẹ và Thẩm phán có trách nhiệm mong xem xét ý kiến này. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

​​​​​​​2.3. Thủ tục ly thân

Vợ chồng có thể nộp đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly thân hoặc một bên vợ, chồng nộp đơn yêu cầu giải quyết đơn phương ly thân. Như phần trên đã phân tích, khi giải quyết yêu cầu ly thân, Tòa án không cần tiến hành hòa giải, bởi chính ly thân có bản chất là một cách thức “hòa giải”. Vợ chồng lựa chọn phương án ly thân nghĩa là đang có mong muốn sửa chữa sai lầm, hàn gắn mâu thuẫn.

Đối với trường hợp vợ chồng thuận tình ly thân: Tòa án lập biên bản ghi nhận sự thuận tình ly thân của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ về tài sản, con cái và những thỏa thuận khác mà vợ chồng đã thiết lập không trái với pháp luật, đạo đức xã hội. Vợ và chồng đều phải ký vào biên bản đó. Sau 07 ngày, nếu vợ chồng không có ý kiến gì khác, Tòa án ra quyết định công nhận ly thân của vợ chồng. Trong thời gian ly thân, vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định ly thân bất cứ thời điểm nào mà không bị giới hạn về mặt thời gian.

Đối với trường hợp đơn phương ly thân: Tòa án giải quyết tranh chấp về tài sản, quyền nuôi con của vợ chồng dựa trên nội dung đơn yêu cầu của đương sự. Đường sự nộp hồ sơ khởi kiện về việc xin đơn phương ly thân tại Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi bị đơn (chồng hoặc vợ) đang cư trú, làm việc; Đương sự nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án quận huyện và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho Tòa án sau khi nhận thông báo nộp tiền tạm ứng án phí của Tòa án; Tòa án thụ lý vụ án, tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và ra Bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Thời gian giải quyết: Thời hạn xét xử là từ 02 đến 03 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án; thời hạn mở phiên tòa là từ 15 ngày đến 30 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Có thể thấy rằng ly thân là vấn đề thực tế tồn tại trong đời sống hôn nhân của vợ chồng, nảy sinh rất nhiều vấn đề xã hội, pháp lý có liên quan. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam cần xem xét, xây dựng chế định ly thân và đưa pháp luật về ly thân được thực hiện trên thực tế nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và điều hòa tốt hơn mối quan hệ hôn nhân và gia đình trong cuộc sống.

NGUYỄN PHI HÙNG (Tòa án Quân sự Quân khu 4)

Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử

2140

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]