Theo Điều 245 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền).”
Quyền về lối đi qua là một trong những quyền đối với bất động sản liền kề, trong đó chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015 thì điều kiện để được mở lối đi qua bất động sản liền kề bao gồm:
- Có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác.
- Bất động sản vì bị vây bọc mà không có hoặc không có đủ lối đi ra đường công cộng. Như vậy, khi bất động sản đáp ứng được các điều kiện trên thì chủ sở hữu của bất động sản bị vây bọc đó có quyền yêu cầu chủ sở hữu của bất động sản vây bọc mở cho mình một lối đi.
Tuy nhiên, việc mở lối đi qua bất động sản liền kề cần phải thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện CL, tỉnh BT.
+ Trích dẫn nội dung: “Ông Trần Hoàng N là chủ sở hữu phần đất thuộc thửa 49, diện tích 9.997,9m2 nằm phía trong phần đất thuộc thửa 76, tờ bản đồ số 23, tọa lạc ấp PT, xã TT do bà Nguyễn Thị L đứng chủ quyền. Lối đi từ nhà ông ra đến lộ phải qua phần đất của bà L và ông cũng đã sử dụng lối đi này từ lâu. Vì vậy, ông N yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông mở lối đi qua phần đất của bà L và yêu cầu phía bên bị đơn tháo dỡ nhà tiền chế ngang 0,9m, dài một cạnh 3,3m, một cạnh 3,1m, diện tích 2,88m2, ông N đồng ý bồi thường giá trị nhà tiền chế, giá trị đất theo giá của Hội đồng định giá đưa ra, vì đây là lối đi duy nhất và thuận tiện nhất để ông N ra đường công cộng.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hoàng N. Buộc bà Nguyễn Thị L mở cho hộ ông Trần Hoàng N lối đi có chiều ngang 1m, chiều dài 3.32m và 3.69m, chiều cao 4m, diện tích 3.5m2.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
+ Trích dẫn nội dung: “Nay gia đình bà B không có lối đi ra đường công cộng (đường liên thôn), bởi vì lô đất của gia đình bà B thuộc tầng 2 (không sát đưòng) nên bị các lô đất của các hộ liền kề bao bọc. Vì vậy, bà B khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phan Thị B, anh Dương Xuân N và ông Chu Sỹ D, bà Chu Thị M (là người chủ quyền sử dụng đất bao bọc lô đất bà B) phải mở cho bà B một lối đi từ lô đất của bà B đến đường công cộng (đường liên thôn) theo đúng hiện trạng của con đường cũ mà gia đình bà B đã sử dụng đi lại từ trước tới nay, con đường có chiều rộng 03 mét và chiều dài theo thẩm định thực tế là 54,1 mét.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nông Thị B. Buộc ông Chu Sỹ D, bà Chu Thị M và bà Phan Thị B, anh Dương Xuân N phải dành cho bà Nông Thị B một lối đi từ lô đất của bà Nông Thị B cho đến đường công cộng (đường liên thôn).
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.
+ Trích dẫn nội dung: “Năm 2014 ông Nguyễn C được cấp GCNQSDĐ, đường đi chung được cấp cho ông Nguyễn C thì vợ chồng ông C và anh Nguyễn Hữu L rào đường đi, hiện nay vợ chồng ông S không có đường đi vào đất để canh tác và thu hoạch nông sản, vợ chồng ông phải đi nhờ trên đất của bà T và ông X đang trồng táo, đường đi khó khăn không thuận tiện. Vợ chồng ông S yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn C, bà Mai Thị Đ và anh Nguyễn Hữu L phải mở cho vợ chồng ông đường đi rộng 1,4m dọc theo hàng ranh đất của vợ chồng ông C, anh L ra đường chính để vợ chồng ông có đường đi vào đất để canh tác. Vợ chồng ông S đồng ý bồi thường trị giá diện tích đất mở đường đi theo quy định của pháp luật. Vợ chồng ông không đồng ý bồi thường trị giá hàng đá chẻ anh L xây trên đất vợ chồng ông yêu cầu mở đường đi vì hàng đá chẻ anh L xây sau khi xảy ra tranh chấp.
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đào Văn H và ông Võ Công S về việc yêu cầu ông Nguyễn C bà Mai Thị Đ, anh Nguyễn Hữu L, mở lối đi qua bất động sản liền kề. Buộc ông Nguyễn C, bà Mai Thị Đ và anh Nguyễn Hữu L phải mở lối đi có diện tích 144m2, giáp thửa 463.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
+ Trích dẫn nội dung: “Lối đi này là lối đi duy nhất vào nhà ông Đàm Văn T và bà Đàm Thị L. Việc vợ chồng anh T1 và chị D rào chắn không cho nhà ông Thoại đi vào rẫy để làm là trái với quy định pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án chấp sơ thẩm tuyên buộc vợ chồng anh Hà Văn T1, chị Dương Thị D phải tháo dỡ 01 hàng rào lưới B40 chiều dài 7,35 m2 trụ bê tông cốt thép; 02 trụ xi măng dùng làm trụ điện và di dời 01 cây xoài kinh doanh năm thứ 2. Đây là tài sản vợ chồng anh T1, chị D đã dành một phần diện tích đất của mình cho để làm lối đi lại phải chịu thêm khoản tiền di dời, đập phá tài sản của mình xây dựng. Tuyên như vậy là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của vợ chồng ông T1, bà D.”
+ Kết quả giải quyết: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2019/DS-ST ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk., giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk giải quyết theo thủ tục chung.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
+ Trích dẫn nội dung: “Theo ông K, lúc ông và ông T cùng nhau mua đất thì có thỏa thuận lối đi chiều ngang 2m (do đất của ông nằm trong đất của ông T) nên nay bà C và các con của bà nhận chuyển nhượng đất thì phải tiếp tục thực hiện lời hứa của ông T là chừa một phần lối đi cho phần đất phía trong. Sự việc này được ông T thừa nhận và ông T cho rằng lúc bán đất đã có thông báo cho bà C về việc phải chừa lối đi cho ông K bên trong. Bà C thì cho rằng lúc bà mua đất từ ông T không biết có sự việc chừa lối đi. Xét thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 275 Bộ luật dân sự năm 2005, thì “chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó” nên yêu cầu mở lối đi của nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Lối đi mà nguyên đơn yêu cầu ngoài việc đã được chủ sử dụng cũ đồng ý thì còn là lối đi thuận tiện nhất và ít gây thiệt hại nhất cho các bên đương sự. Lối đi phía sau nhà bà C bị cản trở bởi bức tường cao và các cống nước, lối đi còn lại có chiều ngang 0,3m là quá nhỏ để đi lại, do đó kháng cáo của bà C là không phù hợp.
+ Kết quả giải quyết: Buộc bà Phan Ngọc C cùng các thành viên trong hộ gồm chị Phan Thị Mỹ H2, anh Huỳnh Xuân N1, chị Phạm Thị Hồng N2, bà Huỳnh Thị Ngọc H3, anh Huỳnh Phương D1 mở cho ông Trần Văn K, anh Huỳnh Kim M, chị Đoàn Thị Mỹ H lối đi tại thửa 145, tờ bản đồ số 24, tọa lạc tại khu phố 5, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre có diện tích: 6,4 m2.