Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 đã mở rộng phạm vi miễn trách nhiệm hình sự để hạn chế đến mức thấp nhất việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với người phạm tội, đồng thời thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta. Bộ luật Hình sự 2015 đã bổ sung thêm những trường hợp có thể miễn trách nhiệm hình sự, trong đó điển hình là việc ghi nhận quy định về hòa giải giữa bị hại và người phạm tội tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: “3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
Việc quy định thêm những trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 nhằm khuyến khích người phạm tội có những hành động tích cực, như ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại thỏa đáng cho bị hại hoặc đại diện của bị hại để giảm bớt hậu quả của tội phạm, nỗ lực đó đã thể hiện ý thức và trách nhiệm của người phạm tội đối với hành vi phạm tội cần được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận để xem xét có nên miễn trách nhiệm hình sự hay không.
Tuy nhiên, ngay sau đó, tại lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2017, quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và người bị hại tự nguyện hòa giải đã được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với yêu cầu hoàn thiện pháp luật, cũng như yêu cầu của hoạt động áp dụng thực tiễn. Theo đó, lần sửa đổi này tập trung vào kỹ thuật lập pháp, ghi nhận một số nội dung liên quan tới việc ghi nhận chính thức hành vi tích cực của người phạm tội và tư cách của chủ thể đại diện cho quyền lợi của người bị hại, cụ thể: “3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự".
Thỏa thuận miễn trách nhiệm hình sự là một quy định pháp lý hình sự không mới ở nhiều quốc gia, nhưng tại Việt Nam, vấn đề này lần đầu tiên được ghi nhận tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015. Mặc dù là một quy định mới, tuy nhiên quy định miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự nguyện hòa giải đã cho thấy tính thiết thực và đã cho thấy nhiều dấu hiệu tích cực trong quá trình áp dụng vào trong thực tiễn. Trước thực tế đòi hỏi việc áp dụng quy định phổ biến, thường xuyên mà hiện tại quy định này lại chưa được hướng dẫn một cách chi tiết từ phía cơ quan có thẩm quyền nên việc áp dụng còn nhiều bất cập và chưa được thống nhất.
Sau thời điểm Chủ tịch nước ban hành Lệnh số 10/2016/L-CTN ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình số số 100/2015/QH13, để bảo đảm việc áp dụng thống nhất và kịp thời, các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 vẫn có hiệu lực thi hành, vấn đề này được ghi nhận trong Công văn số 276/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, trong đó có cả quy định về hòa giải miễn trách nhiệm hình sự. Điều này đã cho thấy tầm quan trọng của các chế định nhân đạo trong Bộ luật Hình sự 2015 đối với đời sống thực tiễn. Kể từ thời điểm trên, một số loại tội phạm trước đó không có căn cứ để được miễn trách nhiệm hình sự, thì nay đã được miễn trách nhiệm hình sự nhờ vào quy định mới này của Bộ luật Hình sự 2015.
Mặc dù được ghi nhận hoàn toàn mới nhưng một số các nội hàm của quy định này đã được hướng dẫn và định hướng giải quyết từ trước bởi cơ quan có thẩm quyền, cùng với thực tiễn áp dụng các nội dung trước đó, đã tạo nên sự thuận lợi, tăng cường tính đúng đắn cho các cá nhân, cơ quan tư pháp có thẩm quyền trong hoạt động xem xét, đánh giá và áp dụng quy định pháp luật. Đơn cử, về căn cứ xác định có hay không có tội phạm? Tính chất và mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội? Tính chất lỗi? Thiệt hại do hành vi phạm tội gây nên? Tất cả đều là những vấn đề mang tính nghiệp vụ gắn liền với hoạt động của các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng. Căn cứ để “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” được xem xét và giải thích tương đồng với tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đã có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
Có thể thấy, sau khi Bộ luật Hình sự 2015 được thông qua, mặc dù bị hoãn thời hạn thi hành vào ngày 01/7/2016, quy định về miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự nguyện hòa giải vẫn được áp dụng. Qua đó, đã cứu rất nhiều trường hợp trước đây không có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự, thì nay đã có cơ sở pháp lý cụ thể để có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự. Trên thực tế, một số loại tội phạm được áp dụng phổ biến căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải, có thể kể đến như Tội "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác", tội "Trộm cắp tài sản"... và nhiều hơn cả là tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh thuận lợi, miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp các bên tự nguyện hòa giải và người phạm tội bồi thường thiệt hại là một quy định mới, lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, việc áp dụng phần lớn vẫn dựa trên nền tảng giải thích pháp luật trước đó, chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm của chủ thể áp dụng pháp luật, mà chưa có bất kỳ hướng dẫn trực tiếp, cụ thể nào từ cơ quan có thẩm quyền, dẫn tới không tránh khỏi sự vướng mắc, không thống nhất trong việc nhận thức và áp dụng quy định trên thực tiễn.
Thứ nhất, về mặt nhận thức, hiện tại đang có những quan điểm trái chiều liên quan tới thẩm quyền áp dụng quy định miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự nguyện thỏa thuận.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự nguyện hòa giải chỉ thuộc thẩm quyền áp dụng của Tòa án” [1] vì tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 không quy định giai đoạn điều tra và truy tố có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự khi có các căn cứ tương ứng. Đồng thời, tại khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự 2015 quy định “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự 2015 quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Do đó, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xác định một người có tội hay không có tội bằng bản án hoặc quyết định và khi đã xác định người nào đó phải chịu trách nhiệm hình sự thì mới xuất hiện khái niệm miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, về mặt lý luận thì có thể khẳng định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế có một số trường hợp khi phát sinh căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự, ở giai đoạn điều tra, truy tố cũng có thể thực hiện được. Nhưng việc miễn trách nhiệm hình sự ở giai đoạn điều tra, truy tố không được xác định bằng quyết định miễn trách nhiệm hình sự mà được thể hiện bằng quyết định đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 thuộc thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án”.
Theo đó, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 xảy ra trong giai đoạn tố tụng nào thì cơ quan tiến hành tố tụng tương ứng với giai đoạn đó có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Điều này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo và sự tôn trọng quyền tự do của con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Theo khoản 6 Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự, trong quá trình tố tụng, bên cạnh việc thu thập các tài liệu chứng cứ, chứng minh có tội phạm xảy ra hay không, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xem xét căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội [2], trường hợp có đủ căn cứ, cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn tương ứng phải ra áp dụng quy định miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Về mặt luật định, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định cho cơ quan tiến hành tố tụng thẩm quyền được miễn trách nhiệm hình sự khi xét thấy người phạm tội đáp ứng những căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai vì cần phải hiểu rằng, trong trường hợp không quy định rõ cơ quan tiến hành tố tụng ở giai đoạn nào có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự phát sinh ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào thì cơ quan có thẩm quyền trong giai đoạn tố tụng tương ứng sẽ có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự và trong trường hợp này Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoàn toàn có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện pháp lý.
Thứ hai, mặc dù là một quy định mang tính nhân văn và thể hiện tầm quan trọng, cũng như sự thiết yếu đối với đời sống xã hội, tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại, chưa có hướng dẫn, giải thích chính thức việc áp dụng quy định từ cơ quan có thẩm quyền, dẫn tới nhiều nội hàm của quy định còn chưa được làm rõ, cụ thể:
(i) Về thiệt hại do hành vi phạm tội làm căn cứ để xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 phải là những thiệt hại liên quan tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản. Tuy nhiên, đối với những trường hợp thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng do vô ý, nhưng chưa gây thiệt hại cho một trong những khách thể tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản thì phương hướng giải quyết như thế nào? Nếu tham gia hòa giải với người bị hại và được người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự thì có được xem xét miễn hay không? Bởi vì điều này xuất phát từ khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, khi quy định “người phạm tội gây thiệt hại” thì mới đủ căn cứ để được miễn trách nhiệm hình sự còn đối với trường hợp không có thiệt hại xảy ra khi thực hiện tội phạm (thuộc dạng được thỏa thuận miễn trách nhiệm hình sự), pháp luật hình sự chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Theo quan điểm của tác giả, nếu như chỉ xem xét áp dụng quy định miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 đối với các loại tội phạm đã gây thiệt hại mà bỏ qua các loại tội phạm chưa gây thiệt hại cho các khách thể được luật hình sự bảo vệ khi mà chủ thể đã có những hành vi tích cực nhất định và được người bị hại đề xuất miễn trách nhiệm hình sự. Vì vậy, cần xem xét, áp dụng một cách tổng quan, quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp các bên tự nguyện thỏa thuận đối với mọi loại tội phạm. Tuy nhiên, vẫn cần phải có hướng dẫn trong việc áp dụng.
(ii) Về việc đề nghị miễn trách nhiệm hình sự của phía bị hại, khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “… được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự…”. Trường hợp, các bên đã đồng ý hòa giải, người phạm tội đã bồi thường, khắc phục các thiệt hại cho phía bị hại, tuy nhiên, phía bị hại lại không đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, vấn đề này sẽ được xử lý như thế nào?
Theo quan điểm của tác giả, sau khi các bên đạt được sự đồng thuận trong việc tham gia phiên hòa giải, dù phía bị hại có đề nghị về việc miễn trách nhiệm hình sự hay không, thì cơ quan có thẩm quyền vẫn có nghĩa vụ tiến hành đánh giá, xem xét áp dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 nếu đủ điều kiện.
Tuy nhiên, hiện tại chưa có tiêu chí chung về đánh giá các nội hàm của quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp hòa giải. Điều này có thể kể tới việc xác định hậu quả của hành vi phạm tội, mức độ của việc tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả của người phạm tội, các tiêu chí đánh giá để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét “có thể” miễn hay không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội… Ngoài ra, việc chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn tới việc áp dụng quy định chưa có sự thống nhất của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhiều trường hợp cho thấy, người phạm tội đã thỏa mãn tất cả các căn cứ và điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, Toà án cấp sơ thẩm cho miễn trách nhiệm hình sự nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại không cho miễn trách nhiệm hình sự.
Một số giải pháp
Xuất phát từ tầm quan trọng của quy định về miễn trách nhiệm hình sự tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 đối với đời sống xã hội, việc hoàn thiện quy định pháp luật và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả là điều cần thiết để việc áp dụng quy định vào trong thực tiễn được đúng đắn và thống nhất. Qua đó cho thấy sự công bằng và công minh của pháp luật, thể hiện sự tiến bộ, văn minh của một quốc gia trong việc quy định chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với người phạm tội. Những đề xuất, kiến nghị tập trung chủ yếu vào những ý sau:
Thứ nhất, xây dựng tiêu chí hướng dẫn xem xét, đánh giá các căn cứ và điều kiện miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự nguyện hòa giải, người phạm tội đã bồi thường thiệt hại và có đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. Việc xây dựng các tiêu chí hướng dẫn xem xét, đánh giá căn cứ về miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu yếu tố chủ quan của cá nhân, cơ quan tư pháp có thẩm quyền, đồng thời tăng cường tính khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật. Qua đó, sự công bằng của pháp luật và sự thống nhất trong việc áp dụng quy định đương nhiên được bảo đảm. Theo đó, các tiêu chí hướng dẫn cần tập trung vào các mục sau:
(i) Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Đây là một trong những căn cứ đầu tiên nhằm xác định người phạm tội có đủ điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 3, Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 hay không. Theo đó, quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp hòa giải chỉ đặt ra với hai loại tội phạm, đó là tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng do vô ý.
Việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cơ bản vẫn được thực hiện theo cách thức chung, trên cơ sở: Xem xét, cân nhắc lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội; phương tiện phạm tội; thủ đoạn phạm tội; thời gian và địa điểm phạm tội; khách thể xâm hại…Xem xét, cân nhắc hậu quả do hành vi phạm tội gây ra bao gồm hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và hậu quả phi vật chất (gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).
(ii) Phạm vi gây thiệt hại: Theo đó, quy định về thiệt hại theo khoản 3, Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 là các thiệt hại liên quan tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản.
Nội dung hòa giải giữa người bị hại và người phạm tội: Các bên tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề quyền và lợi ích hợp pháp, miễn sao nội dung hòa giải giữa các bên không được trái quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Việc đánh giá nội dung hòa giải giữa các bên sẽ là cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền đánh giá được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại đã được khôi phục đến đâu và mức độ ăn năn, hối cải của người phạm tội, thông qua đó áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và thuyết phục.
(iii) Nhân thân người phạm tội: là yếu tố bắt buộc được người có thẩm quyền xem xét, căn cứ khi ra quyết định hình phạt và trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, nhân thân người phạm tội là một tiêu chí quan trọng, bảo đảm việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn. Khi xem xét tiêu chí về nhân thân người phạm tội, có thể đánh giá trên các khía cạnh sau: Giới tính, độ tuổi, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, nghề nghiệp,….
(iv) Mức độ ăn năn, hối cải của người phạm tội: Đây là một tiêu chí quan trọng, nếu đánh giá đúng sẽ đảm bản được mục đích giáo dục cải tạo người phạm tội, và công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nếu không xác định chính xác được người phạm tội có ăn năn, hối cải thực sự, thì điều này sẽ làm cho tội phạm bị bỏ lọt, xu hướng lợi dụng sự nhân đạo của pháp luật sẽ ngày càng gia tăng. Theo đó, tiêu chí này được thể hiện bằng thái độ của chủ thể đối với việc thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể: Người phạm tội có nhận ra hành vi mà mình thực hiện là trái với quy định pháp luật hay không, sự ăn năn, hối lỗi, mức độ chủ động hỗ trợ và phối hợp với người bị hại trong việc tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả của tội phạm…
Thứ hai, tiếp tục rà soát, đối chiếu quy định về miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự nguyện thỏa thuận của pháp luật với thực tiễn áp dụng, nhằm mục đích ghi nhận những thành tựu đã đạt được, để tiếp tục phát huy không chỉ với chính quy định này mà còn trong thực tiễn xây dựng và triển khai các quy định khác nữa. Bên cạnh đó, việc phát hiện những lỗ hổng của pháp luật, tổng hợp những vướng mắc trong quá trình áp dụng là hoạt động vô cùng cần thiết, làm cơ sở cho việc hoàn thiện quy định của pháp luật, qua đó, bảo đảm được nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tính công bằng, nghiêm minh và sát với thực tiễn, bảo vệ toàn diện quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo đó, thông qua quá trình nghiên cứu, phân tích quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, tác giả có một số ý kiến đóng góp hoàn thiện như sau, cụ thể:
(i) Về hậu quả của hành vi phạm tội, bổ sung cụm từ “hoặc đe dọa gây thiệt hại” sau cụm từ “gây thiệt hại” để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng của pháp luật đối với loại tội phạm đã có đủ căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 nhưng lại chưa gây ra bất kỳ thiệt hại nào, hay nói cách khác chỉ dừng lại ở mức đe dọa gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản cho người bị hại.
(ii) Về việc đề xuất miễn trách nhiệm hình sự từ phía bị hại, như đã phân tích, sau khi đồng ý tham gia hòa giải, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tổ chức phiên hòa giải, cũng như việc đánh giá các điều kiện, căn cứ để xem xét áp dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự, không phụ thuộc người bị hại có đề xuất hay không đề xuất miễn trách nhiệm hình sự. Nếu như quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 vẫn ghi nhận về việc đề xuất miễn trách nhiệm hình sự của phía bị hại, thì sẽ không loại bỏ được sự phụ thuộc, và trường hợp người phạm tội sau khi đã khắc phục hoàn toàn được các hậu quả của tội phạm và thỏa mãn các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, tuy nhiên không được xem xét miễn trách nhiệm hình sự do phía bị hại không có đề xuất miễn trách nhiệm hình sự, là trường hợp hoàn toàn có thể xảy ra.
Qua đó, tác giả đề xuất sửa đổi quy định như sau: “3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
Thứ ba, xây dựng nguyên tắc cơ bản khi các bên tham gia hòa giải.
(i) Việc hòa giải giữa các bên phải trên cơ sở tự nguyện, nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh do hành vi phạm tội gây ra. Theo đó, người bị hại hoặc đại diện của người bị hại tham gia hòa giải trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, không trái với ý muốn, không bị bắt buộc, đe dọa hay cưỡng ép… Bên cạnh đó, người trung gian hòa giải, ngoài việc đóng vai trò là người lắng nghe, đánh giá, điều tiết tại phiên hòa giải, mà còn phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên, không được dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc bất kể cách thức nào khiến các bên thỏa thuận trái với ý chí của mình.
Việc hòa giải có thể xuất phát từ đề xuất của người phạm tội hay từ chính người bị hại. Pháp luật dân sự tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể đối với các quyền dân sự của mình và tại Bộ luật Hình sự 2015 tinh thần đó cũng được ghi nhận. Khi người bị hại tự nguyện tham gia hòa giải có nghĩa là họ đã chọn cách thức giải quyết các vấn đề phát sinh do hành vi phạm tội bằng việc thương lượng, thỏa thuận với người đã gây ra thiệt hại cho chính họ. Thông qua phiên hòa giải mà các bên hoàn toàn tự do về mặt ý chí và tự do về việc bày tỏ ý chí giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên. Đối với người phạm tội thông qua qua các hoạt động tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả là sự mong muốn được phía bị hại đề xuất và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét miễn trách nhiệm hình sự. Đối với người bị hại là mong muốn được khắc phục tối đa những thiệt hại mà bản thân phải gánh chịu do hành vi phạm tội gây ra. Hòa giải viên đóng vai trò trung gian, trung lập, ghi nhận ý kiến thỏa thuận của các bên một cách khách quan.
(ii) Về nội dung hòa giải giữa các bên không được trái quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Mặc dù việc hòa giải được tiến hành trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí của các bên, tuy nhiên sự tuân thủ pháp luật và đạo đức xã hội là yêu cầu bắt buộc, để bảo đảm trật tự trong mọi lĩnh vực của đời sống. Điều này được ghi nhận trong nguyên tắc cơ bản của luật hình sự (nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa), do đó mọi nội dung hòa giải trái pháp luật giữa người phạm tội và người bị hại đều không có giá trị pháp lý. Theo đó, “không trái quy định của pháp luật” được hiểu là không thực hiện các điều mà pháp luật cấm.
Bên cạnh việc tuân thủ quy định của pháp luật, sự thỏa thuận của các bên tại phiên hòa giải phải bảo đảm không trái với đạo đức xã hội. Theo đó, đạo đức xã hội là hệ thống quy tắc chuẩn mực xã hội đã được thừa nhận và tôn trọng, theo đó con người tự nguyện điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, xã hội. Ngoài ra, cần lưu ý, ở mỗi không gian và thời gian khác nhau thì có thể có các quan điểm khác nhau về đạo đức xã hội. Vì vậy, cần có sự xem xét yếu tố thời gian và vùng miền trong hoạt động đánh giá việc tuân thủ đạo đức xã hội của các bên khi tiến hành hòa giải để đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về trung gian hòa giải, vì bản chất của việc hòa giải là việc các bên tự nguyện thương lượng, thỏa thuận giải quyết vấn đề quyền lợi và nghĩa vụ của mình, thông qua một bên thứ ba có vai trò làm trung gian, chủ trì và điều tiết phiên hòa giải. Hiện tại, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành, chưa có quy định cụ thể về vị trí trung gian hòa như thế nào, phải là người có kinh nghiệm và kiến thức pháp luật được các bên lựa chọn để điều tiết phiên hòa giải hay phải là người có thẩm quyền?
Theo quan điểm của tác giả, nên quy định về người trung gian hòa giải phải là người có thẩm quyền do cơ quan nhà nước cử ra vì người có thẩm quyền điều tiết phiên hòa giải sẽ được tham gia ngay từ khi các bên có mong muốn thỏa thuận để giải quyết các vấn đề về quyền lợi. Điều này sẽ giúp cho người trung gian hòa giải có cái nhìn trực quan về quá trình hòa giải của các bên, đánh giá được sự ăn năn hối cải của người phạm tội, kiểm soát được tính tuân thủ pháp luật trong nội dung thỏa thuận của các bên, từ đó tính chính xác và đúng đắn quyết định miễn trách nhiệm hình sự được nâng cao, bảo đảm được mục đích răn đe, giáo dục người phạm tội của Luật hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó, việc quy định về người có thẩm quyền tham gia điều tiết phiên hòa giải, góp phần quan trọng trong việc quy định về trình tự, thủ tục áp dụng, bảo đảm tính khoa học, hợp lý trong việc xây dựng và tính khách quan trong thực tiễn thi hành, qua đó đáp ứng yêu cầu chặt chẽ, nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cần quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người trung gian hòa giải vì, người trung gian hòa giải có vai trò quan trọng, là hành lang pháp lý để người trung gian hòa giải căn cứ trên cơ sở đó mà thực hiện. Về quyền, nghĩa vụ của người trung gian hòa giải chủ yếu tập trung vào hoạt động lắng nghe, ghi nhận nội dung hòa giải; cung cấp thông tin và trả lời các câu hỏi liên quan tới: chương trình hòa giải, thủ tục hòa giải, mục đích của việc hòa giải, thông báo về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia phiên hòa giải.... Về trách nhiệm của người trung gian hòa giải hướng đến việc: Bảo đảm mong muốn của nạn nhân và người phạm tội là thực tế, khả thi; Thông qua phiên hòa giải đánh giá những thiệt hại và nhu cầu; Dự kiến khả năng bồi thường [4]…
Ngoài ra, về địa điểm tiến hành hòa giải, việc hòa giải có thể tiến hành tại trụ sở cơ quan tố tụng dưới sự điều hành của người tiến hành tố tụng được phân công với vai trò là hòa giải viên hoặc tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người phạm tội cư trú.
TRẦN TUÂN
Toà án quân sự Quân khu 9
Nguồn: Tạp chí Tòa án
[1] Nguyễn Văn Lam (TAQSQK9), “Chế định miễn trách nhiệm hình sự”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/che-dinh-mien-trach-nhiem-hinh-su;
[2] “Áp dụng không thống nhất về miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 3, Điều 29, Bộ luật hình sự 2015”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ap-dung-khong-thong-nhat-ve- mien-trach-nhiem-hinh-su-quy-dinh-tai-khoan-3-dieu-29-Bộ luật Hình sự 2015-2015;
[3] Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015 năm 2015;
[4] Trần Thu Hạnh (2017), “Bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 33, Số 2, tr 67.