08/09/2021 14:30

Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải - Một số nội dung cần làm rõ

Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải - Một số nội dung cần làm rõ

Trong phạm vi bài viết này tác giả nêu lên và phân tích những quy định pháp luật có liên quan đến dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, nêu lên một số khó khăn, vướng mắc đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.

1. Về yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập

1.1 Việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện

Theo bản Tờ trình dự thảo và theo Dự thảo lần 2 Nghị quyết hướng dẫn theo hướng: “Nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước khi nhận được Thông báo của  Thẩm phán về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất”.

Về thời điểm đưa ra yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện vấn đề này tác giả cho rằng nên hướng dẫn hiểu đúng theo quy định pháp luật hiện hành theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 3 Điều 200, khoản 2 Điều 210, Điều 243 của BLTTDS và hướng dẫn tại Mục 7 Phần IV Công văn số 01/ 2017/GĐ-TANDTC ngày 07-4-2017 của TANDTC về Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ: “Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu”. Nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước khi mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Nhưng cần bổ sung là phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy, nếu như hạn chế quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn càng làm cho vụ án kéo dài và phức tạp hơn do không giải quyết triệt để vụ án.

Vấn đề đặt ra của việc hạn chế thời gian để nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu như không chấp nhận thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì sẽ làm cho việc giải quyết vụ án thêm vô cùng phức tạp.

Thứ nhất, hiện nay có thể thấy Tòa án thụ lý vụ án trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự, sau khi thụ lý vụ án thì Tòa án sẽ tiến hành tống đạt cho đương sự để có ý kiến hoặc yêu cầu đối với nguyên đơn, nhưng thông thường có thể thấy vụ án thường rất nhiều đương sự và nhiều quan hệ pháp luật, thường phát sinh trong quá trình thu thập chứng cứ hoặc thông qua hòa giải sẽ phát sinh thêm nhiều nội dung tranh chấp có liên quan đến vụ án mà ngay lúc đầu nguyên đơn không thể nào biết được để khởi kiện ngay từ đầu, điều đáng nói là những tranh chấp phát sinh này có liên quan trực tiếp đến vụ án, không thể tách ra giải quyết thành một vụ án độc lập, do đó, nếu tách ra không chấp nhận sẽ làm cho việc giải quyết khó khăn không đúng bản chất sự thật khách quan của vụ án.

Thứ hai, nếu như Tòa án không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì nguyên đơn cũng có thể khởi kiện thành vụ kiện khác độc lập nhưng Tòa án cũng phải nhập vụ án để giải quyết chung trong cùng một vụ án.

Thứ ba, bản chất của việc giải quyết vụ án luôn hướng đến mục đích làm sao giải quyết nhanh chóng vụ án và đảm bảo phải tìm ra sự thật khách quan, nếu như không chấp nhận việc khởi kiện bổ sung sẽ không giải quyết triệt để vụ án và làm cho quá trình giải quyết lại càng kéo dài, tốn tiền thời gian công sức tham gia tố tụng của đương sự và Tòa án. Ngoài ra, việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung đơn khởi kiện vì cho rằng quyền của mình bị xâm phạm nên nếu không chấp nhận sẽ gây khó khăn cho người bị xâm phạm.

Thứ tư, việc Tòa án chấp nhận thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn qua thực tiễn xét xử hiện nay cũng không xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tục do không coi là làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án.

Tóm lại, theo tác giả nên cho phép thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trước phiên họp và phiên hòa giải cuối cùng, có thể trong khoảng thời gian trước phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng trước khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án có thể giải thích, hoặc thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, nếu như nguyên đơn không thực hiện thì mất quyền này, mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng để Tòa án chốt lại các vấn đề trước khi đưa vụ án ra xét xử là hợp lý, hơn nữa lúc này Thẩm phán cũng cơ bản nắm được nội dung tranh chấp.

1.2 Thời điểm bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu phản tố

Theo dự thảo Nghị quyết hướng dẫn theo hướng: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trong thời hạn do Thẩm phán ấn định theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự hoặc theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều này.  Sau thời điểm này, Tòa án chỉ chấp nhận việc bị đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi, bổ sung yêu cầu độc lập nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt qua phạm vi yêu cầu phản tố, yêu cầu đầu độc lập ban đầu”. 

Cũng giống như quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tác giả không đồng ý với việc giới hạn ngắn lại thời gian đưa ra quyền cầu phản tố của bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo như hướng dẫn của Dự thảo Nghị quyết trên bởi các lý do sau:

Thứ nhất, tác giả cho rằng việc quy định hạn chế thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu đầu độc lập là không phù hợp, mặc dù mục đích chính của việc giới hạn thời điểm đưa ra quyền yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập nhằm giải quyết nhanh chóng vụ án, tránh trường hợp kèo dài nhưng việc quy định thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu đầu độc lập trong thời hạn do Thẩm phán ấn định theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự là không hợp lý. Theo đó, điểm g khoản 2 Điều 196 của BLTTDS năm 2015: “Thời hạn bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có)”.

Theo khoản 3 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 thì thời điểm để đưa ra yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Như vậy, hiện nay BLTTDS năm 2015 đã quy định rõ về thời điểm để đưa ra yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, chúng ta chỉ có thể hiểu là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nào? Là phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần đầu hay là phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần cuối cùng trước khi Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Nếu như Nghị quyết hướng dẫn theo hướng trong thời hạn do Thẩm phán ấn định theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 196 BLTTDS năm 2015 thì liệu có phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 của BLTTDS năm 2015 khi mà hai thời điểm này là hoàn toàn khác nhau, tác giả cho rằng chỉ nên hướng dẫn khi những nội dung không rõ ràng không làm khác đi tình trạng của Điều luật hiện tại vì khoản cách thời gian giữa hai nội dung hoàn toàn khác nhau, làm ngắn đi quyền đưa ra yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập.

Mặt khác, theo quy định tại khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định thì: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

Nếu hướng dẫn khoảng thời gian ngắn hơn quy định của luật sẽ gây thiệt hại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bởi vì họ không thể biết được nội dung khởi kiện cũng như quyền lợi của mình bị xâm phạm, do Tòa án thường thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện ban đầu của nguyên đơn thông thường xác định bị đơn và người liên quan rất hạn chế, có thể không đầy đủ nếu áp dụng quy định thời hạn như hướng dẫn để chấp nhận yêu cầu độc lập thì họ sẽ mất đi quyền khởi kiện yêu cầu độc lập của họ trực tiếp phạm đến quyền, lợi ích của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Hơn thế nữa, làm sao để họ biết được vụ kiện để có thể tham gia, liên quan đến quyền, lợi ích của họ rất khó khi trong thông báo thụ lý ban đầu rất hạn chế hầu như là không thông báo cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ thể tự mình tham gia vụ án hoặc chủ thể được Tòa án xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa vào tham gia tố tụng sau khi hòa giải).

Do đó, việc xác định chỉ có quyền yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập trong thời hạn do Thẩm phán ấn định theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 196 là không phù hợp.

Thứ hai, hậu quả pháp lý khi sau thời điểm Tòa án không chấp nhận yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập.

Theo quy định tại Điều 202 BLTTDS năm 2015 thì thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn, do đó trình tự thủ tục đều phải thực hiện theo thủ tục khởi kiện giống như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn ban đầu.

Nếu như Tòa án không chấp nhận quyền cầu phản tố của bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì họ cũng có thể khởi kiện thành vụ án khác và Tòa án cũng phải thực hiện thủ tục thụ lý và giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự. Điều tác giả muốn nói đến trong vấn đề này liệu Tòa án có thể giải quyết độc lập khi mà có những vụ án do có nhiều mối quan hệ nhiều đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu không nhập lại thì không giải quyết được vụ án.

Tóm lại, theo tác giả nên hướng dẫn bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập theo khoản 3 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 BLTTDS năm 2015 theo đó trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, (phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ở đây được hiểu là phiên họp và hòa giải cuối cùng, chốt lại các vấn đề có liên quan đến vụ án trước khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử là hoàn toàn hợp lý.

2. Về việc giao nộp tài liệu chứng cứ của đương sự

Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn về trường hợp lý do chính đáng tại khoản 2 Điều 3 quy định: “là sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật dân sự làm cho đương sự không thể giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án trong thời gian quy định”.

Về vấn đề này vẫn còn một số vướng mắc cần phải làm rõ, để quá trình áp dụng pháp luật được thống nhất.

Lý do chính đáng được quy định tại khoản 2 Điều 3 của Dự thảo Nghị quyết có được hướng dẫn cho trường hợp tại khoản 2 Điều 207 BLTTDS năm 2015 quy định trong trường hợp đương sự vắng mặt vì lý do chính đáng thì thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được hay không không? Theo tác giả, cũng cần áp dụng cho trường hợp tại khoản 2 Điều 207 BLTTDS năm 2015.

Theo khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015, theo đó,“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Thế nhưng với định nghĩa như vậy, khi liên hệ với thực tế trong nhiều trường hợp nhận diện “sự kiện bất khả kháng” là điều không đơn giản.

Còn trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.

Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 28 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định như sau: “… nhưng do sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với họ vào trước thời điểm Toà án mở phiên toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Toà án để tham gia phiên toà (do thiên tai, địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…) nên họ không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, thì Toà án cũng hoãn phiên toà”.

Theo tác giả việc nhận diện thế nào là sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan trong thực tiễn xét xử vô cùng khó khăn, nếu như không có sự quy định cụ thể sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, có nơi cho rằng đây là sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan có nơi khác lại không. Do đó, để thống nhất trong thực tiễn xét xử tác giả kiến nghị TANDTC ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể cho trường hợp trên, có thể theo hướng liệt kê tất cả các lý do, hướng dẫn liệt kê từng trường hợp cụ thể để tránh nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn có thể hướng dẫn theo hướng lý do chính đáng là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác xảy ra như: do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện; một bên đương sự đang ở trong trại cải tạo hoặc ở nước ngoài hoặc do nơi cư trú của các đương sự ở các nơi có khoảng cách địa lý xa nhau đi lại khó khăn, chi phí tốn kém... khiến cho đương sự không thể có mặt tham gia phiên hòa giải được.[1]

3.Về chuẩn bị mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

3.1. Cần hướng dẫn rõ về thông báo và thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Thứ nhất, về Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Hiện nay, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án đặc biệt là trường hợp vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thông thường quá trình tống đạt Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong đó ấn định rõ thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên quá trình ủy thác, tống đạt này thường mất rất nhiều thời gian, có khi không có kết quả, dẫn đến trường hợp là khi đến thời gian mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì đương sự mới nhận được thông báo nên không thể tham gia phiên họp được, điều này ảnh hưởng đến quyền tham gia phiên họp của đương sự. Do đó, theo tác giả, cần hướng dẫn theo hướng cho phép Tòa án chủ động hơn trong việc Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có thể thông qua thân nhân, phương tiện điện tử… thì có thể xem là tống đạt hợp lệ, vì bản chất của quy định này nhằm mục đích thông báo cho họ biết thời gian địa điểm để tham gia, nếu như họ không tham gia coi như từ bỏ quyền lợi của chính họ.

Thứ hai, thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thành phần tham gia hòa giải là chủ thể cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên hòa giải theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 209 BLTTDS năm 2015 trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp… Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015 về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự thì những cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan theo khoản 2 Điều 209 BLTTDS năm 2015 có phải là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hay không? Hay họ là chủ thể khác, do hiện nay có một số quan điểm cho rằng họ cũng là đương sự trong vụ án, nên theo quy định của khoản 1 Điều 209 BLTTDS 2015, họ đương nhiên là thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Cho nên, để áp dụng khoản 2 Điều này thì cần có hướng dẫn cụ thể về “cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan”.

Theo tác giả, cần hướng dẫn cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong trường hợp này không phải là đương sự trong vụ án mà là cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan am hiểu, chuyên gia, hay hòa giải viên…mục đích giúp Thẩm phán hiểu rõ hơn vấn đề tranh chấp nhằm hòa giải đạt được kết quả tốt nhất.

Việc mời những đối tượng này tham gia phiên họp và hòa giải sẽ góp phần giúp Thẩm phán tiến hành giải quyết vụ việc dễ dàng nắm bắt được nhiều thông tin về vụ việc, cũng như tâm lý của các bên tranh chấp. Từ đó có những cách xử lý linh hoạt, phù hợp với mỗi vụ việc để đạt được kết quả hòa giải tốt.

Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trong thành phần tham gia phiên hòa giải bao gồm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhằm đảm bảo tốt hơn việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thành phần tham gia hòa giải bao gồm cả người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có), cho nên Tòa án phải triệu tập họ tham gia phiên hòa giải và quy định này đã đảm bảo sự tương thích với khoản 3 Điều 76 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, với quy định mới này, trong BLTTDS năm 2015 lại không quy định về hậu quả pháp lý nếu trường hợp người bảo vệ quyền lợi của đương sự vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên hòa giải. Hiện nay vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, với mục đích nâng cao trách nhiệm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cũng như tránh việc lợi dụng quyền được triệu tập tham gia phiên hòa giải để kéo dài thời gian giải quyết vụ án, nghị quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2015 nên quy định nếu họ vắng mặt, phiên hòa giải vẫn tiến hành bình thường[2].

3.2 Cần hướng dẫn rõ về địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Đối với địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, hiện nay có nhiều vụ án do điều kiện địa lý, vùng sâu vùng sa, hay do đương sự đang ở trong trạm tạm giam tạm giữ  (đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, bị ốm đau, bệnh tật,…) nếu Tòa án chủ động mở phiên họp ngoài trụ sở thì khả năng hòa giải thành cao, không phải đưa vụ án ra xét xử theo tác giả nhằm mục đích giải quyết nhanh chóng vụ án và bảo đảm sự linh hoạt cho Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hiện nay trình tự thủ tục tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngoài trụ sở Tòa án thì luật không có hướng dẫn cụ thể dẫn đến Tòa án không thể chủ động trong việc tiến hành mở phiên họp và hòa giải ngoài trụ sở Tòa án do sợ vi phạm nghiêm trọng thủ thủ tục tố tụng dân sự.

Do đó, theo tác giả nên hướng dẫn cho phép Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngoài trụ sở Tòa án, thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngoài trụ sở Tòa án được thực hiện tương tự theo tinh thần Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định về chứng cứ và chứng minh. Theo đó việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngoài trụ sở Toà án phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật, quy định đối với cán bộ, công chức của ngành Toà án nhân dân và bảo đảm khách quan (ví dụ: mở phiên họp và hòa giải đối với đương sự đang bị tạm giam phải được thực hiện tại Trại tạm giam theo bố trí của Ban Giám thị Trại tạm giam; mở phiên họp và hòa giải đối với đương sự bị ốm đau nhưng không đi điều trị tại cơ sở y tế phải được thực hiện tại nơi họ đang điều trị và nếu xét thấy cần thiết thì mời người chứng kiến…).

NCS LÝ VĂN TOÁN (Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang)

Nguồn: Tạp chí Tòa án

[1] Lý Văn Toán (2021), “Một số ý kiến về quy định lý do chính đáng, sự kiện bất khả kháng vả trở ngại khách quan”, Tạp chí Kiểm sát số 15/2021, tr. 54-58.

[2] Bùi Thị Huyền (2016), “Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về hòa giải vụ án dân sự và những nội dung cần hướng dẫn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8), tr. 22.

8548

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]