21/03/2025 17:38

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trộm cắp tài sản sẽ bị xử lý như thế nào?

Trộm cắp tài sản là hành vi xâm phạm tới quyền sở hữu nhưng không xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Hành vi này được xác định là tôi phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Vậy những đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trộm cắp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có biện pháp xử lý nào khác hay không?

Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản 

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) phân định mốc độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:

- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

Như vậy, đối với trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo những tội danh được liệt kê trên và trong đó có tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015).

Tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) chỉ rõ trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản:

- Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

+ Tài sản là di vật, cổ vật.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức; 

+ Có tính chất chuyên nghiệp;

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

+ Hành hung để tẩu thoát;

+ Tài sản là bảo vật quốc gia;

+ Tái phạm nguy hiểm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 hướng dẫn phân loại tội phạm, cụ thể:

- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;

- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Có thể thấy từ các trích dẫn trên thì đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà có hành trộm cắp tài sản nhưng chỉ định khung ở khoản 1, khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng) thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trộm cắp tài sản sẽ bị xử lý như thế nào? (Hình từ internet)

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trộm cắp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có biện pháp xử lý nào khác hay không?

Theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020) thì không có biện pháp xử lý đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trộm phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng.

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 đề cập năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân đối với người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

Như vậy, trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trộm cắp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì chỉ phải bồi thường thiệt hại cho người bị mất cắp nếu có thiệt hại phát sinh.

Lê Anh Tú
11

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]