Ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964 là một mốc son lịch sử đáng nhớ của Hải quân nhân dân Việt Nam và cả nước. Trong trận chiến đầu tiên đối đầu với hải quân và không quân Mỹ hùng mạnh, các chiến sĩ Hải quân đã thể hiện tinh thần quả cảm, mưu trí, đánh bại kẻ thù, giành thắng lợi vang dội. Chiến công này không chỉ là một chiến thắng quân sự mà còn là một biểu tượng của ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta.
Chiến thắng này còn là kết quả của sự đoàn kết, sáng tạo của toàn dân tộc, nơi trí tuệ và nghệ thuật quân sự Việt Nam được phát huy tối đa. Với tinh thần "lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn", ta đã biến những hạn chế về vũ khí thành lợi thế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù hùng mạnh.
Trận thắng đã khẳng định sức mạnh và bản lĩnh của Hải quân nhân dân Việt Nam, đồng thời tạo nên truyền thống "đánh thắng trận đầu" hào hùng, trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân. Đến nay, ngày 2 và 5 tháng 8 vẫn luôn được cả nước tôn vinh và kỷ niệm, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những hy sinh, đóng góp của các anh hùng liệt sĩ.
Như vậy, ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam là ngày 02 và 05 tháng 8 năm 1964.
Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính tham khảo.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 1999 thì hệ thống cấp bậc quân hàm của sĩ quan trong lực lượng Quân chủng Hải quân gồm ba cấp, mười một bậc:
- Cấp Uý có bốn bậc:
+ Thiếu uý;
+ Trung uý;
+ Thượng uý;
+ Đại uý.
- Cấp Tá có bốn bậc:
+ Thiếu tá;
+ Trung tá;
+Thượng tá;
+ Đại tá.
- Cấp Tướng có bốn bậc:
+ Chuẩn Đô đốc Hải quân;
+ Phó Đô đốc Hải quân;
+ Đô đốc Hải quân.
Như vậy, quân hàm sĩ quan Hải quân Việt nam gồm có 3 cấp và 11 bậc, cụ thể:
- Cấp Úy: Có 4 bậc, bao gồm: Thiếu uý; Trung uý; Thượng uý; Đại uý.
- Cấp Tá: Có 4 bậc, gồm: Thiếu tá; Trung tá; Thượng tá; Đại tá.
- Cấp Tướng: Có 3 bậc, bao gồm: Chuẩn Đô đốc Hải quân; Phó Đô đốc Hải quân; Đô đốc Hải quân.
Theo quy định tại Điều 26 và Điều 27 Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 1999 về nghĩa vụ và trách nhiệm chung đối với sĩ quan như sau:
(1) Sĩ quan có nghĩa vụ sau đây:
- Sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia xây dựng đất nước, bảo vệ tài sản và lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức; bảo vệ tính mạng, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân;
- Thường xuyên giữ gìn và trau dồi đạo đức cách mạng, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực về chính trị, quân sự, văn hoá, chuyên môn và thể lực để hoàn thành nhiệm vụ;
- Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia;
- Thường xuyên chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần của bộ đội;
- Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tôn trọng và gắn bó mật thiết với nhân dân.
(2) Sĩ quan có trách nhiệm sau đây:
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về những mệnh lệnh của mình, về việc chấp hành mệnh lệnh của cấp trên và việc thừa hành nhiệm vụ của cấp dưới thuộc quyền;
- Lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ của đơn vị theo chức trách được giao; bảo đảm cho đơn vị chấp hành triệt để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội, sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào;
- Khi nhận mệnh lệnh của người chỉ huy, nếu sĩ quan có căn cứ cho là mệnh lệnh đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra mệnh lệnh; trong trường hợp vẫn phải chấp hành mệnh lệnh thì báo cáo kịp thời lên cấp trên trực tiếp của người ra mệnh lệnh và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành mệnh lệnh đó.