Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) quy định một số tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nghĩa là cơ quan có thẩm quyền phải nhận được yêu cầu của bị hại mới được khởi tố vụ án, nếu không việc khởi tố này là trái pháp luật. Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết đối với bị hại.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 155 BLTTHS về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự 2015 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Quy định của pháp luật đã cụ thể, rõ ràng nhưng trong thực tiễn áp dụng các quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại còn có vướng mắc, có những quan điểm, cách hiểu khác nhau khi khởi tố, giải quyết vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại.
Thứ nhất, bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, các vụ án về tội: “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác” luôn chiếm tỷ lệ cao trong các tội chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Đối với vụ án cố ý gây thương tích thì yêu cầu bắt buộc đối với cơ quan điều tra phải xác định được tỷ lệ thương tích của bị hại, bởi chỉ khi xác định được phần trăm tỉ lệ thương tích của bị hại thì cơ quan điều tra mới có căn cứ để khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không thể xử lý được vì bị hại không hợp tác, từ chối giám định để xác định tỷ lệ thương tích gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án.
Tại điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS đã quy định về biện pháp dẫn giải có thể áp dụng đối với bị hại không hợp tác, từ chối giám định: “Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”. Đây là biện pháp cưỡng chế nhằm khắc phục trường hợp bị hại từ chối việc giám định gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định này có vướng mắc đó là thực hiện dẫn giải bị hại đi giám định nhưng bị hại vẫn cương quyết từ chối việc giám định, tỏ thái độ bất hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng với lý do có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, vì vậy việc giám định không thể tiến hành được.
Thứ hai, giới hạn giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Trường hợp vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau đã phát sinh vướng mắc trong việc xác định những người không yêu cầu khởi tố vụ án có được coi là bị hại không, trường hợp này có khởi tố vụ án hình sự hay không. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ không bảo vệ được quyền, lợi ích của người bị hại có yêu cầu khởi tố và ngược lại nếu ra quyết định khởi tố vụ án hình sự lại ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người bị hại không có yêu cầu khởi tố. Giải quyết vấn đề này có các quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu thì không khởi tố vụ án hình sự vì không đảm bảo được đầy đủ tất cả yêu cầu của các bị hại về việc khởi tố vụ án, do đó không thể khởi tố vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng: Chỉ cần có yêu cầu khởi tố vụ án của một hoặc một số bị hại thì cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bị hại.
Quan điểm của tác giả: Trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án hình sự để điều tra và giải quyết toàn diện các vấn đề trong vụ án, xác định đầy đủ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, phải đặt lợi ích của tất cả bị hại bên cạnh lợi ích của từng bị hại cũng như lợi ích chung của xã hội trong việc xử lý hành vi phạm tội.
Thứ ba, trường hợp vụ án có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị hại chỉ yêu cầu khởi tố vụ án đối với hành vi của một hoặc một số người phạm tội trường hợp này cơ quan điều tra có khởi tố tất cả người phạm tội hay không?
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cơ quan điều tra khởi tố vụ án và khởi tố đối với tất cả bị can như thế mới đảm bảo giải quyết triệt để vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bị hại. Quan điểm thứ hai: Cơ quan điều tra phải tôn trọng quyền tự định đoạt của bị hại, chỉ giải quyết đối với bị can bị bị hại yêu cầu khởi tố, không giải quyết đối với bị can không bị bị hại yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự.
Quan điểm của tác giả: Trường hợp này cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án và khởi tố tất cả các bị can, bởi vì theo quy định của BLTTHS về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, không có quyền yêu cầu khởi tố bị can mà thẩm quyền thuộc về cơ quan điều tra. Khi đã khởi tố thì vụ án phải được giải quyết công bằng và nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Tất cả các bị can đều phải bị xem xét trách nhiệm pháp lý, đối với việc bị hại không yêu cầu khởi tố đối với bị can nào sẽ xem xét là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can đó.
Thứ tư, bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn xét xử phúc thẩm xử lý như thế nào?
Điều 155 BLTTHS không giới hạn quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại; bị hại có thể rút yêu cầu khởi tố vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm hoặc giai đoạn xét xử phúc thẩm, vấn đề là cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết yêu cầu của bị hại một cách hợp lý, đúng quy định pháp luật.
Khoản 2 Điều 155 BLTTHS quy định trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ. Quy định này chỉ hợp lý trong trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn điều tra, truy tố, trước khi mở phiên tòa sơ thẩm hoặc tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ, thủ tục đình chỉ vụ án trong các trường hợp này được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 230; khoản 1 Điều 248 và khoản 1 Điều 282 BLTTHS.
Thực tế có thể phát sinh trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Khi bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm sẽ khó khăn cho cấp phúc thẩm trong vấn đề xử lý, bởi lẽ các quy định về xét xử phúc thẩm của BLTTHS không đề cập đến vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố và hướng giải quyết yêu cầu như thế nào?
Sau đây, tác giả phân tích từng trường hợp cụ thể:
Trường hợp thứ nhất, bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Trường hợp này Toà án phải giải thích cho bị hại về hậu quả của việc rút yêu cầu khởi tố và Tòa án vẫn phải mở phiên tòa xét xử vụ án, không thể đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 282 BLTTHS như đối với thủ tục xét xử sơ thẩm được. Bởi lẽ, thủ tục xét xử phúc thẩm không quy định đình chỉ vụ án mà chỉ có đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu Tòa án căn cứ vào việc rút yêu cầu của bị hại để đình chỉ xét xử phúc thẩm thì bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật, khi đó việc rút yêu cầu khởi tố của bị hại sẽ không có ý nghĩa, người phạm tội vẫn phải chấp hành hình phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm.
Trường hợp thứ hai, bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp này Tòa án cũng không đình chỉ vụ án như tại phiên tòa sơ thẩm, về nguyên tắc và thủ tục tố tụng, Tòa án phải căn cứ vào khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355 BLTTHS để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, đối chiếu Điều 359 BLTTHS quy định về căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án lại không có trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án.
BLTTHS không quy định cụ thể vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm dẫn đến quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại được luật quy định, nhưng khi quyền này được thực hiện trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng lại không có cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo nguyên tắc, thủ tục xét xử phúc thẩm.
Để giải quyết vướng mắc trên, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 để hướng dẫn áp dụng người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 BLTTHS. Theo đó, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: “Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Hướng dẫn trên là chưa phù hợp, vì các điều luật về hủy án sơ thẩm như Điều 358 BLTTHS (hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại) và Điều 359 BLTTHS (hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án) đều không thỏa mãn đối với trường hợp này. Đặt vấn đề nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm mà vụ án bị đình chỉ và bản án sơ thẩm bị hủy thì các vấn đề như trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng sẽ giải quyết như thế nào?
Theo quan điểm tác giả, đối với trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo thủ tục rút gọn xem đây là tình tiết mới và áp dụng Điều 357 BLTTHS để sửa bản án sơ thẩm theo hướng miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo do thỏa mãn các quy định tại khoản 3 Điều 29 hoặc Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015. Với việc tuyên sửa bản án sơ thẩm về hình phạt, các phần khác của bản án sơ thẩm vẫn giữ nguyên hiệu lực để thi hành, các vấn đề của vụ án mới được giải quyết toàn bộ.
Qua nghiên cứu khởi tố, giải quyết vụ án theo yêu cầu của bị hại, để áp dụng thống nhất và đúng quy định của BLTTHS, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ nghĩa vụ của bị hại trong việc giám định thương tích; trình tự, thủ tục, điều kiện dẫn giải bị hại đi giám định thương tích nếu bị hại từ chối giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn để các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất thực hiện các trường hợp: Vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án; vụ án có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị hại chỉ yêu cầu khởi tố vụ án đối với hành vi của một hoặc một số bị can, bị cáo.
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS theo hướng: ‘‘Đối với trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo thủ tục rút gọn xem đây là tình tiết mới và áp dụng Điều 357 BLTTHS năm 2015 để sửa bản án sơ thẩm theo hướng miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo’’.
Tóm lại, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt cơ quan có thẩm quyền không tự quyết định việc khởi tố mà việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện theo yêu cầu của bị hại. BLTTHS không giới hạn quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại, việc rút yêu cầu khởi tố ở thời điểm nào cũng có lợi cho các bên, trong đó có cả lợi ích của Nhà nước, khi bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại rút yêu cầu khởi tố nghĩa là họ thể hiện ý chí không mong muốn giải quyết bằng biện pháp hình sự nữa mà họ muốn tự thoả thuận dân sự với nhau thì vụ án phải được đình chỉ (ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm); người phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt (ở giai đoạn xét xử phúc thẩm).
Quy định của pháp luật đã cụ thể, rõ ràng nhưng trong thực tiễn áp dụng còn có vướng mắc cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn để thống nhất trong quá trình áp dụng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.
Thạc sĩ LÊ ĐÌNH NGHĨA-Tòa án quân sự khu vực 1 Quân khu 5
Nguồn: Luật sư Việt Nam