Trong trường hợp có người làm giả căn cước công dân đứng tên của người khác để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì căn cứ tại Công văn 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp một số vướng mắc trong xét xử có hướng dẫn như sau:
* Hỏi: Nguyễn Văn A nhờ người làm giả căn cước công dân đứng tên người khác. Sau khi nhận được căn cước công dân giả thì thì Nguyễn Văn A dán ảnh của mình trên căn cước công dân đó để lừa đảo chiếm đoạt 1.800.000.000 đồng.
Trường hợp này, Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về 02 tội là “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 và “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)?
* Trả lời: Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" với tình tiết định khung “Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Như vậy, trong trường hợp có người làm giả căn cước công dân đứng tên của người khác để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì Tòa án có thể bị truy cứu người đó với cả 02 tội danh là “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức".
Tham khảo tình huống tại Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 01/2024/HS-ST do Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử ngày 04/01/2024 có nội dung được tóm tắt như sau:
[...]
Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1999 (trú tại thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang) đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng cách lên mạng xã hội tìm những người kinh doanh dịch vụ cho thuê xe ô tô và xe mô tô tự lái, sau đó Đ liên hệ lừa thuê xe rồi đem đi thế chấp xe ô tô và bán xe mô tô để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Ngoài ra, Đ còn lên mạng xã hội Facebook và Z thuê người làm Căn cước công dân giả để sử dụng vào việc thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Với thủ đoạn trên, trong thời gian từ ngày 14/12/2022 đến ngày 28/01/2023, Đ đã 04 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện S, tỉnh Tuyên Quang và huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó có 01 lần Đ đã sử dụng Căn cước công dân giả vào việc thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:
…
- Lần 4: Do cần có Căn cước công dân để đặt làm tin khi thuê xe ô tô tự lái, rồi mang đi thế chấp lấy tiền tiêu xài cá nhân (trước đó Đ đã đưa Căn cước công dân của mình số 008099000xxx do Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ C cấp ngày 29/01/2021 cho anh Duy A giữ để thuê chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30H-602.xx), nên trong tháng 01/2023 Đ đã vào mạng xã hội Facebook và Z đặt mua 01 Căn cước công dân giả số 008099000xxx mang tên Nguyễn Văn Đ, có hình ảnh Đ mặc áo phông không cổ, họa tiết đen trắng, với số tiền là 800.000 đồng (không nhớ tên tài khoản, không xác định được người làm Căn cước công dân giả cho Đ).
Sau khi mua được Căn cước công dân giả trên, ngày 28/01/2023 Đ tiếp tục vào mạng xã hội Facebook tìm người cho thuê xe ô tô tự lái, Đ thấy có anh Lê Văn Đ1, sinh năm 1997 (trú tại tổ dân phố D, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Tĩnh; nơi ở phường C, quận B, thành phố Hà Nội) đăng bài viết cho thuê xe ô tô tự lái, Đ1 đã liên hệ, thoả thuận thuê của anh Lê Văn Đ1 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Vinfast Lux A2.0, màu xanh, biển kiểm soát 38A-324.xx, với giá 1.000.000 đồng/ngày, thời gian thuê 10 ngày (từ 30/01/2023 đến 08/02/2023), tổng số tiền thuê xe là 10.000.000 đồng.
[...]
Qua nội dung bản án có thể thấy được bị cáo đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối bằng hình thức thuê xe của các nạn nhân để thế chấp vay tiền và bán 01 chiếc xe mô tô để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Ngoài ra, bị cáo còn 01 lần thực hiện hành vi sử dụng căn cước công dân giả mang tên bị cáo đưa cho một nạn nhân giữ làm tin để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt xe ô tô của mình.
Do đó, tại bản án này, Tòa án đã tuyên bố bị cáo phạm hai tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là hoàn toàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.
Theo đó bị cáo sẽ có mức phạt là 13 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 03 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 16 năm 06 tháng tù.