Theo quy định tại Điều 462 của Bộ luật dân sự năm 2015 về tặng cho tài sản có điều kiện như sau:
“1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Sau đây là Tổng hợp 5 bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, các bạn cùng tham khảo.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
+ Trích dẫn nội dung: “Ngày 26/3/2018, bà Nguyễn Thị Đ1 mai mối cho ông quen biết bà Lý Thị Đ. Bà Đ1 yêu cầu ông mua sắm quần, áo và nữ trang cho bà Đ để tuyên bố ông và bà Đ chung sống với nhau; đồng thời, bà Đ1 đảm bảo bà Đ chấp nhận chung sống với ông. Ông chở bà Đ đến tiệm vàng mua nữ trang và đi mua 03 bộ quần áo giao cho bà Đ nhận và ông cho bà Đ số tiền 500.000đ. Sau đó, ông, bà Đ, bà Đ1 và vợ chồng ông Út cùng đến nhà hàng ở bến phà Châu Đốc dự tiệc gọi là lễ tuyên bố, chi phí cho buổi tiệc là 800.000đ. Buổi tiệc kết thúc, ông chở bà Đ về nhà ông nhưng đến cầu kênh Đào (Châu Đốc), bà Đ diện cớ đến nhà bà Đ1 lấy xe đạp và bà Đ trốn luôn. Tổng số nữ trang và quần áo ông cho bà Đ trị giá là 6.000.000đ. Nay ông yêu cầu bà Đ trả lại cho ông 6.000.000đ và yêu cầu bà Đ1 trả lại cho ông chi phí buổi tiệc làm lễ tuyên bố 800.000đ.”
+ Kết quả giải quyết: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn D về yêu cầu bà Lý Thị Đ trả 6.000.000đ - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn D về yêu cầu bà Nguyễn Thị Đ1 trả 8.000.000đ.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
+ Trích dẫn nội dung: “Do bị mắc bệnh hiểm nghèo bà Đ nghĩ mình sắp chết, lúc đó có bà Trần Thị V là em gái ruột của bà đã nhận sẽ có trách nhiệm chăm sóc bà, khi bà chết sẽ lo hậu sự cho bà, bà V sẽ được hưởng các tài sản của bà. Vào ngày 05/6/2011 bà có viết Di chúc có chứng kiến của các anh em ruột trong gia đình. Nội dung Di chúc ghi: “Bà Đ sẽ giao cho em gái là bà Trần Thị V và em rể là ông Dương Hữu Th 01 (một) nhà ba gian, 01 (một) mảnh vườn số thửa 312, tờ bản đồ 52, diện tích 833m2 tại thôn Vũ Lâm, xã Vũ Lễ cùng một số tài sản khác; bà Trần Thị V và ông Dương Hữu Th có trách nhiệm lo liệu các công việc sau này, nếu bà Đ qua đời phải lo ma chay, lo 40 ngày, lo 100 ngày, lo 03 năm, phải thờ phụng hương khói mãi mãi”. Đến tháng 01 năm 2020, hai bên xảy ra cãi chửi nhau, bà V đã xây bịt cửa sổ, lối đi và cắt nước không cho bà dùng chung, đồng thời đuổi bà ra khỏi nhà. Nay bà yêu cầu bà Trần Thị V phải trả lại các tài sản cho bà để bà đi ở chỗ khác, tự lo cuộc sống của mình, bao gồm các khoản tiền bán nhà, đất và các tài sản khác với tổng số tiền là 675.000.000đ.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Đ. Buộc bị đơn bà Trần Thị Vphải có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Đ số tiền là 332.500.000 đồng.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
+ Trích dẫn nội dung: “Ngày 29/10/2007 bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Bùi Thị H. Do thời điểm năm 2007 bà bệnh nặng nên Lý Thùy N cứ theo nài nỉ bà là cho N đứng tên chung trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì thấy N nài nỉ và lời nói mà N cam kết sẽ nuôi bà suốt đời nên bà có ký vào giấy cho đất, nhưng trong giấy N ghi nội dung như thế nào thì bà không biết, vì lúc đó bà không còn thấy, mắt đã mờ và N tự ý cầm tay bà ký tên. Từ đó Lý Thùy N đã giữ toàn bộ giấy tờ nhà và đất, hộ khẩu của bà. Kể từ ngày đã được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà N đã ngược đãi và không chăm sóc bà như lời nói mà bà N cam kết. Nhiều lần bà muốn về nhà nhưng N đã chửi bới và đuổi bà không cho bà vô nhà, hiện tại bà không có nhà để ở, phải sống tạm vào nhà trọ của con gái nhỏ. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của bà cho Lý Thùy N, buộc N phải giao trả nhà đất lại cho bà.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bùi Thị H về việc “tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và đòi giá trị tài sản phát sinh từ hợp đồngtặng cho quyền sử dụng đất” đối với bị đơn bà Lý Thùy N.
Buộc bà Lý Thùy N phải có nghĩa vụ trả cho bà Bùi Thị H số tiền 319.714.000 đồng.
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.
+ Trích dẫn nội dung: “Bà Nguyễn Thị O có cho đất anh T với điều kiện anh T có nghĩa vụ nuôi dưỡng bà và bà Nguyễn Thị P suốt đời. Sau khi anh T cất nhà, bà và bà P về chung sống với vợ chồng anh T, trong quá trình chung sống giữa hai bên phát sinh mâu thuẫn do bà làm việc gì vợ chồng anh T cũng không đồng ý nên bà và bà P ra sống riêng. Sau khi, bà và bà P ra sống riêng, anh T có đưa cho bà 05kg gạo và 1.000.000đ nhưng bà không nhận. Bà yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với anh T; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh T đứng tên; buộc anh T trả lại phần đất diện tích 5.953m2, tọa lạc ấp TTA, xã TAKN, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau. Đồng thời yêu cầu anh T bồi thường số tiền 20.000.000 đồng.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị O. Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị O với anh Phạm Hoàng T. Buộc anh T trả lại phần đất diện tích 5.953m2, tọa lạc ấp TTA, xã TAKN, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
+ Trích dẫn nội dung: “Bà Tô Thị T được thừa kế tài sản của cha, mẹ phần đất có diện tích 12.245 m2 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do không có chồng, con nên bà nhận anh Huỳnh Công Th là con của người em ruột về làm con nuôi để anh Th chăm sóc, phụng dưỡng khi về già. Năm 2000, bà cưới chị Huỳnh Thị H về cho anh Th để anh, chị cùng chăm sóc, phụng dưỡng bà và sau này bà sẽ giao lại toàn bộ tài sản lại cho vợ, chồng anh Th thừa hưởng. Khoảng năm 2016, bà làm thủ tục giao diện tích 12.245 m2 cho anh Th, chị H nhưng chỉ có chị H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, anh Th, chị H đã chuyển nhượng một phần diện tích đất cho người khác. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh Th, chị H thiếu sự quan tâm, chăm sóc đối với bà. Anh Th bỏ về sống tại ấp B, xã HT cùng với chị H để bà sống một mình không người chăm sóc khi ốm đau. Do anh Th, chị H không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc nên bà T yêu cầu hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18-3-2016, chứng thực số 66, quyển số 01/2016/SCT/HĐ,GD đối với thửa số 185, tờ bản đồ số 53, diện tích 1.378,3 m2.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tô Thị T đối với anh Huỳnh Công Th và chị Huỳnh Thị H.