Theo quy định tại Điều 319 Bộ luật Dân sự 2015 thì hiệu lực của thế chấp tài sản được ghi nhận như sau:
Điều 319. Hiệu lực của thế chấp tài sản
1. Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2. Thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
Như vậy, hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, hiệu lực đối kháng của thế chấp với người thứ ba chỉ bắt đầu từ khi tài sản được đăng ký.
Thời điểm giao kết hợp đồng phụ thuộc vào hình thức của hợp đồng, như quy định tại Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định như với hình thức bằng lời nói nêu trên”.
Bộ luật Dân sự không yêu cầu hợp đồng thế chấp phải bằng văn bản, nên các bên có thể chọn hình thức hợp đồng phù hợp theo Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015. Nếu luật liên quan yêu cầu hợp đồng thế chấp phải được công chứng, chứng thực và đăng ký, các bên phải tuân thủ các yêu cầu đó (theo Khoản 2 Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015). Khi hai bên đã thống nhất về việc thế chấp tài sản, hợp đồng thế chấp đã có hiệu lực ràng buộc giữa họ, ngay cả khi chưa có văn bản. Pháp luật không bắt buộc phải lập hợp đồng thế chấp bằng văn bản. Tuy nhiên, để đảm bảo tính minh bạch và dễ chứng minh, việc lập văn bản hợp đồng là rất cần thiết. Trong một số trường hợp, pháp luật yêu cầu phải công chứng hoặc chứng thực hợp đồng thế chấp.
Ngoài ra, thế chấp tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ thời điểm đăng ký. Nếu luật không yêu cầu công chứng hoặc chứng thực mà các bên không thực hiện đăng ký, hợp đồng thế chấp chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia hợp đồng. Việc này phản ánh nguyên tắc tự do và tự nguyện trong giao dịch dân sự và hạn chế việc hành chính hóa các giao dịch. Để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, pháp luật quy định phải đăng ký hợp đồng thế chấp. Việc đăng ký này giúp cho mọi người biết được tài sản đã bị thế chấp, tránh trường hợp mua phải tài sản đang bị thế chấp.
Theo quy định tại Điều 327 Bộ luật Dân sự 2015 thì chấm dứt thế chấp tài sản được ghi nhận như sau:
Điều 327. Chấm dứt thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.
2. Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
3. Tài sản thế chấp đã được xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các bên.
Xác định căn cứ chấm dứt thế chấp rất quan trọng vì ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi thế chấp chấm dứt, các bên không còn bị ràng buộc và bên thế chấp có quyền bán hoặc sử dụng tài sản mà không cần sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Bên nhận thế chấp không thể yêu cầu giao tài sản để xử lý sau khi thế chấp đã được giải quyết.
Thông thường, thế chấp chấm dứt khi nghĩa vụ chính đã được thực hiện. Trong một số trường hợp theo pháp luật, nghĩa vụ bảo đảm sẽ chấm dứt cùng với nghĩa vụ chính. Các bên có thể hủy bỏ thỏa thuận thế chấp hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. Nếu bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ và tài sản được xử lý để thanh toán nợ, thế chấp cũng chấm dứt sau khi xử lý xong.
Vì thế chấp là một loại hợp đồng, căn cứ chấm dứt thế chấp tương tự như chấm dứt hợp đồng. Hiểu rõ về thế chấp giúp các cá nhân và tổ chức tránh rủi ro trong các giao dịch dân sự.