Chào chị, Ban biên tập xin giải đáp như sau:
Trong trường hợp 2 bên có viết giấy vay tiền, mà trên giấy không ghi thời hạn vay thì sẽ được xem là quan hệ dân sự vay tài sản không kỳ hạn.
Theo quy định tại Điều 469 Bộ luật Dân sự 2015 thì nếu giấy vay tiền không ghi thời hạn vay thì ngày trả nợ được xác định như sau:
- Trường hợp vay không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp vay có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ, nhưng cũng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội
- Trích dẫn nội dung: Ngày 07/10/2007 (âm lịch) tức ngày 16/11/2007, ông T và bà T1 cho ông T2 và bà P vay số tiền 500.000.000 đồng, hai bên có viết Giấy vay tiền, không thời hạn vay, không lãi suất và ngày 14/04/2010 (âm lịch) tức ngày 27/05/2010 dương lịch, ông T và bà T1 cho ông T2 và bà P vay số tiền 700.000.000 đồng, hai bên có viết Giấy vay tiền, không thời hạn vay, không lãi suất. Xét yêu cầu tính lãi của ông T và bà T1 đối với số tiền cho ông T2 và bà P vay, Hội đồng xét xử nhận thấy đây là quan hệ dân sự vay tài sản không kỳ hạn, không lãi suất, cho nên Hội đồng xét xử ra quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn T và bà Dương Thị T1 đối với ông Trần Văn T2 và bà Phạm Thị P và Buộc ông Trần Văn T2 và bà Phạm Thị P phải trả cho ông Vũ Văn T và bà Dương Thị T1 tổng cộng là 2.460.000.000 đồng.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Trích dẫn nội dung: Bị đơn ông Phạm Quốc D, bà Trần Thị T có vay tiền của Nguyên đơn bà Ngô Thị Thanh M, trong đó, tại các giấy vay tiền không ghi mức lãi phải trả cũng như thời hạn trả. Bà T khai cam kết trả lãi là 10%/tháng, bà M khai 3%/tháng nhưng không bên nào có chứng cứ chứng minh nên Tòa án nhận định mức lãi sẽ được áp dụng theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 là 10%/năm. Vì không cam kết thời hạn trả nợ nên Tòa án bà M có quyền yêu cầu bà T, ông D trả nợ bất cứ lúc nào theo quy định tại Khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự 2015.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
- Trích dẫn nội dung: Tháng 01/2023, bà L chấp hành án phạt tù xong và trở về địa phương. Khi về nhà bà phát hiện ông N có cho bà L vay số tiền 100 triệu đồng. Khi vay bà L có viết và ký Giấy vay tiền với nội dung: Bà L vay của ông N số tiền 100 triệu và cam kết trả nợ gốc và lãi đầy đúng, thời hạn đến ngày 3/12/2021. Tuy nhiên trong Giấy vay tiền không ghi ngày vay và mức lãi suất. Do thời gian này bà đang phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam nên không có mặt ở nhà mà chồng bà là người đứng ra cho bà L vay. Sau khi biết việc chồng bà cho bà L vay số tiền này, bà đã đến nhà bà L nhiều lần để đòi lại số tiền 100 triệu này nhưng bà L không đồng ý trả. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau nhưng không thành.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk
- Trích dẫn nội dung: Vào ngày 18/01/2018 (âm lịch), bà Ch đã cho bà H vay số tiền 50.000.000 đồng, hai bên có lập giấy vay tiền cùng ngày, sau đó, bà H đã vay thêm số tiền 20.000.000 đồng nên bà H đã ghi thêm dòng chữ “còn 70 triệu chưa tính lãi” ở phần cuối cùng của giấy vay tiền này, hai bên thoả thuận thời gian trả nợ là cuối năm 2018, bà H đã trả được cho bà Ch số tiền 30.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền gốc 40.000.000 đồng được bà Ch thừa nhận. Ngoài ra vào ngày 09/8/2018 bà H đã vay của bà Ch số tiền là 20.000.000 đồng, thoả thuận đến cuối năm sẽ thanh toán đầy đủ, hai bên thỏa thuận mức lãi là 3 %/tháng, khi vay bà H có viết giấy vay tiền; ngày 21/01/2019, bà H có vay của bà Ch số tiền 35.000.000 đồng, bà H đã viết giấy vay tiền cùng ngày, không ghi thời hạn trả nợ. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử ra quyết định buộc bị đơn bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ch tổng số tiền là 135.208.000 đồng, trong đó nợ gốc 95.000.000 đồng, tiền lãi 40.208.000 đồng.
Trân trọng!