19/06/2021 14:18

Giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

Giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình đó.

1.Các quy định xung đột pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

1.1.Về độ tuổi kết hôn:

Kết hôn có yếu tố nước ngoài thường phát sinh xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn. Ví dụ: Luật hôn gia đình Việt Nam quy định: nữ từ đủ 18 tuổi, nam từ đủ 20 tuổi được quyền kết hôn nhưng Bộ luật dân sự Pháp quy định tuổi kết hôn đối với nam là 18, nữ là 15[ii]. Bộ luật dân sự Nhật Bản lại quy định tuổi kết hôn đối với nam là 18, nữ là 16[iii] hay pháp luật Trung Quốc quy định nam từ 22, nữ từ 20 mới được quyền kết hôn. Như vậy độ tuổi kết hôn trong pháp luật các nước quy định rất khác nhau.

1.2.Về các hành vi bị nghiêm cấm

Pháp luật Việt Nam quy định cấm kết hôn trong phạm vi ba đời, nhưng ở Bulgari lại có quy định cấm kết hôn trong phạm vi bốn đời[iv]. Hay đối với một số vấn đề khác: ở nhiều nước, người vợ góa hoặc li dị chồng phải sau một thời gian nhất định mới được tái giá như ở Đức quy định là 10 tháng, ở Pháp là 300 ngày[v]. Riêng vấn đề này Luật hôn nhân gia đình của Việt Nam chúng ta không có quy định về thời gian giới hạn.

1.3.Về nghi thức kết hôn

Về nghi thức kết hôn, pháp luật Việt Nam xây dựng rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh, như: Luật hộ tịch 2014, Nghị định 123/2015, Thông tư 15/2015 hướng dẫn Luật hộ tịch và Nghị định 123, Thông tư 02/2016 hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.

Quy định ở các văn bản này không phải quy phạm xung đột để xác định hệ thống pháp luật được áp dụng điều chỉnh nghi thức kết hôn mà nhà làm luật sử dụng các quy phạm thực chất, theo đó quy định cụ thể việc đăng ký kết hôn tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần trải qua những trình tự thủ tục như thế nào. Trước hết, về cơ quan có thẩm quyền cho đăng ký kết hôn, được quy định tại Điều 123 Luật Hôn nhân gia đình 2014: “1. Thẩm quyền đăng ký hộ tịch liên quan đến các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo các quy định của pháp luật về hộ tịch”. Điều này dẫn chiếu đến việc áp dụng Luật hộ tịch chứ không nêu ra cụ thể cơ quan có thẩm quyền. Tại Luật hộ tịch có quy định về ba cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn là Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 7, Điều 37) nơi cứ trú của công dân Việt Nam khi công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam kết hôn với nhau mà có một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài, công dân Việt Nam có quốc tịch nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn với người nước ngoài, hai người nước ngoài kết hôn với nhau tại Việt Nam; Cơ quan đại diện (Điều 7, Điều 53) đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài; Uỷ ban nhân dân cấp xã (Điều 7, Điều 17) đối với công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân nước ngoài cũng thường trú ở khu vực biên giới.

Có thể thấy, về giải quyết xung đột pháp luật trong nghi thức kết hôn, Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam đi theo hai phương thức giải quyết xung đột khác nhau, trong khi Hiệp định tương trợ tư pháp sử dụng quy phạm xung đột thì pháp luật Việt Nam sử dụng các quy phạm thực chấp.

2.Giải quyết xung đột pháp luật

2.1. Về điều kiện kết hôn

Việc giải quyết xung đột pháp luật trong các vấn đề này trước hết được đặt ra trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hay chính xác hơn là các Hiệp định tương trợ tư pháp.

Đối với điều kiện kết hôn, tại Điều 25 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam-Lào quy định: “trong việc kết hôn giữa công dân các nước ký kết, mỗi bên đương sự phải tuân theo điều kiện kết hôn quy định trong pháp luật của nước ký kết mà họ là công dân. Trong trường hợp kết hôn tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của một nước ký kết thì họ còn phải tuân theo pháp luật của nước ký kết đó về điều kiện kết hôn”. Như vậy nguyên tắc ở đây là mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước ký kết mà mình mang quốc tịch Lex patriae đồng thời áp dụng pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn Lex loci celebrationis. Tương tự, tại Điều 24 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam-Liên Bang Nga cũng quy định: “Điều kiện kết hôn giữa công dân bên ký kết này với công dân bên ký kết kia phải tuân theo pháp luật của bên ký kết mà những người đó là công dân. Ngoài ra còn phải tuân theo pháp luật của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn về các trường hợp cấm kết hôn”. Vẫn là hai nguyên tắc luật quốc tịch và luật nơi tiến hành kết hôn được áp dụng trong Hiệp định này và cả các Hiệp định khác nữa. Có thể kết luận, việc giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn theo các Hiệp định tương trợ tư pháp của Việt Nam với các bên ký kết thì sẽ áp dụng pháp luật của bên ký kết mà các bên là công dân và pháp luật của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn về các trường hợp cấm kết hôn và điều kiện kết hôn.

2.2.Về nghi thức kết hôn

Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước, xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn được giải quyết như sau: Điều 24 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định: “Hình thức kết hôn tuân theo pháp luật của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn”. Như vậy là nghi thức kết hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn. Tương tự, Điều 24 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Ucraina cũng quy định: “ Hình thức kết hôn tuân theo pháp luật của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn”. Vận dụng nguyên tắc Lex loci celebrationis để giải quyết xung đột pháp luật trong nghi thức kết hôn là quy định hợp lý và trung hòa được quyền cũng như lợi ích của các quốc gia thành viên Hiệp định tương trợ tư pháp.

Có thể thấy cách thức giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài khá nhất quán trong quy định của các Hiệp định tương trợ tư pháp. Tuy nhiên việc giải quyết xung đột pháp luật chỉ giới hạn trong phạm vi những quan hệ kết hôn phát sinh giữa các quốc gia ký kết Hiệp định. Đối với những quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đến từ những quốc gia mà chúng ta chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp thì sẽ được giải quyết bởi những quy định của pháp luật Việt Nam

3.Giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Đối với điều kiện kết hôn, tại khoản 25 Điều 3 của Luật Hôn nhân gia đình 2014 xác định quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài rơi vào một trong ba trường hợp. Thứ nhất là công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, thứ hai là người nước ngoài thường trú tại Việt Nam kết hôn với nhau và thứ ba là công dân Việt Nam mà có ít nhất một bên định cư ở nước ngoài kết hôn với nhau tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Như vậy việc xác định pháp luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật sẽ tương ứng với ba trường hợp kể trên.

Thứ nhất là, cơ sở pháp lý là khoản 1 Điều 126 Luật Hôn nhân gia đình 2014: “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn”. Từ quy định này chúng ta thấy rằng, mỗi bên là công dân Việt Nam phải tuân theo những quy định của luật này về điều kiện kết hôn, công dân nước ngoài phải tuân theo pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch về điều kiện kết hôn. Ngoài ra công dân nước ngoài đó còn phải tuân theo pháp luật Việt Nam với tư cách là luật của nước nơi tiến hành kết hôn nếu họ kết hôn trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

Thứ hai là, cơ sở pháp lý là khoản 2 Điều 126: “Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt nam phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn”. Như vậy khác với trường hợp thứ nhất, khi người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam tại Việt Nam phải thỏa mãn áp dụng pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch và pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn còn khi hai người nước ngoài thường trú ở Việt Nam kết hôn với nhau chỉ cần tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn.

Thứ ba là, theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì quan hệ hôn nhân gia đình mà có ít nhất một bên đang định cư ở nước ngoài thì đó là quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên Điều 126 của Luật Hôn nhân gia đình 2014 không có quy phạm xung đột để điều chỉnh cho trường hợp này. Do đó, chúng ta phải tìm đến nguyên tắc chung quy định tại Điều 122 Luật Hôn nhân gia đình 2014: “Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp luật này có quy định khác”. Điều này có nghĩa là trong trường hợp luật Hôn nhân gia đình 2014 có quy định khác đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài thì sẽ áp dụng quy định khác đó. Cụ thể là Điều 126 có quy định khác thì chúng ta áp dụng quy định khác đó. Nhưng nếu Luật Hôn nhân gia đình 2014 không có quy định khác thì theo nguyên tắc chung ta sẽ áp dụng Luật hôn nhân gia đình Việt Nam để điều chỉnh quan hệ đó.    

Có thể thấy, Luật Hôn nhân gia đình nói riêng và Tư pháp quốc tế Việt Nam nói chung đã có những quy định về các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, từng bước đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh của mối quan hệ này trong bối cảnh sự phát triển và diễn biến phức tạp của nó hiện nay trong xã hội.

Th.S NGUYỄN THỊ  KHÁNH NGỌC (Khoa Luật, Đại học Kinh tế- Luật ĐHQG TP.HCM)

Nguồn: Tạp chí Tòa án

[i] Khoản 25, Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014

[ii] Điều 144 Bộ luật dân sự Pháp

[iii] Điều 731 Bộ luật dân sự Nhật bản

[iv] Điều 10 Bộ luật gia đình Bulgaria

[v] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, nxb Tư pháp, 2017, tr. 489

13562

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn