Chào anh, Ban Biên tập xin giải đáp như sau:
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại. Hiện nay, trong các quan hệ thương mại, phương thức này càng được sử dụng rộng rãi trong phạm vi quốc gia và cả phạm vi quốc tế vì các ưu điểm như:
- Thủ tục nhanh chóng, các bên có thể thỏa thuận thời gian và địa điểm giải quyết, không trải qua nhiều cấp xét xử như Tòa án
- Được chỉ định Trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc
- Nguyên tắc xét xử không công khai giúp các bên giữ được uy tín của mình.
Theo Điều 05 Luật trọng tài thương mại 2010, quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài như sau:
Điều 5. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Theo đó, để giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại, các bên phải có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại 2010, Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết dù có thỏa thuận trọng tài trong trường hợp:
- Có quyết định của Tòa án hủy phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên.
- Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài quy định tại điểm a, b, d khoản 1 Điều 43 và đ khoản 1 Điều 59 Luật Trọng tài thương mại 2010.
- Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị quyết 01 gồm:
+ Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
+ Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
+ Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
+ Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật trọng tài thương mại nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.
Trong một số trường hợp tranh chấp có thỏa thuận trọng tài nhưng thuộc vào các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được hướng dẫn tại Điều 03 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP. Theo đó, thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu trong các trường hợp sau:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
- Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định pháp luật
- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật
Theo Điều 14 Luật Trọng tài thương mại 2010, quy định về luật áp dụng giải quyết tranh chấp như sau:
Điều 14. Luật áp dụng giải quyết tranh chấp
Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo đó, các vụ án tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam. Đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài, sẽ áp dụng pháp luật mà các bên lựa chọn. Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp, sẽ áp dụng tập quán quốc tế.