Chào anh, Ban biên tập xin giải đáp như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật công nghệ cao 2008 thì Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
Theo đó, tại khoản 4 Điều 3 Luật công nghệ cao 2008 định nghĩa Doanh nghiệp công nghệ cao là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, cung ứng dịch vụ công nghệ cao, có hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ cao.
Theo quy định tại Điều 3 Quyết định 10/2021/QĐ-TTg năm 2021 thì Doanh nghiệp công nghệ cao phải đáp ứng các tiêu chí quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 18 Luật Công nghệ cao 2008 và khoản 3 Điều 76 Luật Đầu tư 2020, đồng thời đáp ứng các tiêu chí sau:
(1) Doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao phải đạt ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hằng năm của doanh nghiệp.
(2) Tỷ lệ tổng chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp (bao gồm khấu hao đầu tư cơ sở hạ tầng, tài sản cố định, chi thường xuyên hàng năm cho hoạt động nghiên cứu và phát triển; chi hoạt động đào tạo, hỗ trợ đào tạo cho lao động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp, các tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở đào tạo tại Việt Nam; phí bản quyền, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp phục vụ hoạt động nghiên cứu và phát triển; phí đăng ký công nhận hoặc bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích tại Việt Nam) trên giá trị của tổng doanh thu thuần trừ đi giá trị đầu vào (bao gồm giá trị nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất nhập khẩu và mua nội địa) hằng năm:
- Đối với doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 6.000 tỷ đồng và tổng số lao động từ 3.000 người trở lên phải đạt ít nhất 0,5%;
- Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều này, có tổng nguồn vốn từ 100 tỷ đồng và tổng số lao động từ 200 người trở lên phải đạt ít nhất 1%;
- Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 3 Quyết định 10/2021/QĐ-TTg năm 2021 phải đạt ít nhất 2%.
(3) Tỷ lệ lao động trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên của doanh nghiệp (là số lao động đã ký hợp đồng lao động có thời hạn từ 01 năm trở lên hoặc hợp đồng không xác định thời hạn, trong đó lao động có trình độ cao đẳng không vượt quá 30%) trên tổng số lao động:
- Đối với doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 6.000 tỷ đồng và tổng số lao động từ 3.000 người trở lên phải đạt ít nhất 1%;
- Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 3 Quyết định 10/2021/QĐ-TTg năm 2021, có tổng nguồn vốn từ 100 tỷ đồng và tổng số lao động từ 200 người trở lên phải đạt ít nhất 2,5%;
- Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 3 Quyết định 10/2021/QĐ-TTg năm 2021 phải đạt ít nhất 5%.
Như vậy, ngoài việc đáp ứng các tiêu chí theo quy định tại Luật công nghệ cao 2008 và Luật Đầu tư thì doanh nghiệp còn phải đáp ứng thêm 03 tiêu chí sau mới được coi là doanh nghiệp công nghệ cao:
(1) Doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao chiếm ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hàng năm của doanh nghiệp;
(2) Tỷ lệ tổng chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển phải đạt mức nhất định, phụ thuộc vào quy mô và nguồn vốn của doanh nghiệp;
(3) Tỷ lệ lao động trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên cần đạt mức nhất định trong tổng số lao động của doanh nghiệp.
Trân trọng!