Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Đầu tư 2020 liệt kê những trường hợp tổ chức kinh tế phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, cụ thể:
- Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh;
- Có tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ;
- Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 23 và điểm b khoản 2 Điều 37 Luật Đầu tư 2020 cũng nêu rõ những trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thành lập doanh nghiệp dưới 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp được thành lập thì thực hiện đầu tư như những nhà đầu tư trong nước vào không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Theo quy định tại khoản 1, khoản 4, khoản 5 Điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có đề cập đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mà không thực hiện thủ tục đầu tư (thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư) thì được kinh doanh bất động sản với các hình thức tương tự như tổ chức, cá nhân trong nước, cụ thể có các quyền:
- Đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
- Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản để chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật;
- Mua, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
- Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản để chuyển nhượng, cho thuê;
- Thuê nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng để cho thuê lại;
- Thuê quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản để cho thuê lại;
- Nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản để tiếp tục đầu tư xây dựng, kinh doanh.
Như vậy, theo phân tích tại mục trên thì đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thành lập doanh nghiệp dưới 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp được thành lập thì thực hiện đầu tư như những nhà đầu tư trong nước vào không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Do đó, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ được quyền kinh doanh bất động sản như các cá nhân, tổ chức trong nước và có quyền "thuê nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng để cho thuê lại".
Theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật Doanh nghiệp 2020 nêu rõ doanh nghiệp chịu trách nhiệm đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi. Tức trường hợp này doanh nghiệp có phát sinh hoạt động ngành nghề kinh doanh khác với lúc đăng ký thì phải đăng ký bổ sung thông tin đăng ký doanh nghiệp về ngành nghề kinh doanh bất động sản.
Ngoài ra tại Điều 49 Nghị định 122/2021/NĐ-CP nêu rõ mức phạt đối với hành vi không thực hiện thay đổi thông tin như sau:
- Cảnh cáo đối với hành vi vi phạm thời hạn thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp từ 01 ngày đến 10 ngày.
- Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm thời hạn thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp từ 11 ngày đến 30 ngày.
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm thời hạn thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp từ 31 ngày đến 90 ngày.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm thời hạn thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp từ 91 ngày trở lên.
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp theo quy định.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc gửi thông báo đến cơ quan đăng ký kinh doanh đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 49 Nghị định 122/2021/NĐ-CP trong trường hợp chưa thông báo thay đổi theo quy định;
+ Buộc gửi thông báo đến cơ quan đăng ký kinh doanh đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 49 Nghị định 122/2021/NĐ-CP.