Hiện hành, chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về khái niệm định giá tài sản. Tuy nhiên, có thể hiểu cơ bản về “Định giá tài sản” như sau:
Định giá tài sản là quá trình xác định giá trị của một tài sản cụ thể hoặc một tập hợp các tài sản tại một thời điểm nhất định. Giá trị này có thể được biểu thị bằng một con số tiền, và nó phản ánh giá trị thị trường hiện tại hoặc giá trị sử dụng của tài sản đó. Quá trình này thường được thực hiện để mục đích đầu tư, bảo hiểm, tài chính, hoặc để giải quyết tranh chấp.
Lưu ý: Thông tin trên chỉ mang tính tham khảo.
Theo quy định tại Điều 17 Nghị định 30/2018/NĐ-CP về phương pháp định giá tài sản trong tố tụng hình sự như sau:
(1) Căn cứ vào loại tài sản; thông tin và đặc điểm của tài sản; tình hình khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá; Hội đồng định giá thực hiện định giá tài sản theo tiêu chuẩn về thẩm định giá, phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ và các tiêu chuẩn, phương pháp định giá quy định tại pháp luật chuyên ngành liên quan đến tài sản cần định giá.
(2) Đối với một số trường hợp cụ thể, việc định giá tài sản thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 30/2018/NĐ-CP, đồng thời tiến hành như sau:
- Tài sản chưa qua sử dụng: Hội đồng định giá xác định giá của tài sản theo giá của tài sản giống hệt còn mới hoặc tài sản tương tự còn mới (nếu không có tài sản giống hệt);
- Tài sản đã qua sử dụng: Hội đồng định giá xác định giá của tài sản trên cơ sở xác định giá trị thực tế của tài sản;
- Tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ nhưng vẫn có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu xác định giá trị thiệt hại của tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ, Hội đồng định giá xác định giá trên cơ sở chi phí khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ;
- Tài sản bị mất, thất lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ và không có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: Hội đồng định giá xác định giá của tài sản theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá;
- Tài sản là hàng giả: Hội đồng định giá xác định giá tài sản theo giá của hàng thật hoặc giá của tài sản tương tự theo quy định của Bộ luật Hình sự;
- Tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường; tài sản là kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị văn hóa, tôn giáo, khảo cổ, kiến trúc, lịch sử: Hội đồng định giá xác định giá tài sản dựa trên kết quả giám định, ý kiến đánh giá của cơ quan có thẩm quyền và chuyên gia về lĩnh vực này hoặc giá trị ghi trong hồ sơ, tài liệu của tài sản.
Như vậy, hội đồng định giá thực hiện việc định giá dựa trên các tiêu chuẩn thẩm định giá, phương pháp định giá theo pháp luật chuyên ngành và đặc điểm riêng của tài sản. Đối với các trường hợp đặc thù như tài sản bị hủy hoại, mất mát, hay tài sản có giá trị lịch sử, văn hóa, việc định giá được thực hiện thông qua giám định chuyên môn, đánh giá của cơ quan có thẩm quyền hoặc hồ sơ tài liệu liên quan. Quy trình này không chỉ tuân thủ chặt chẽ pháp luật mà còn bảo đảm quyền lợi các bên liên quan trong quá trình tố tụng hình sự.
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định 30/2018/NĐ-CP thì người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được tham gia định giá tài sản:
(1) Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo.
(2) Đã tham gia định giá hoặc định giá lại tài sản đang được trưng cầu định giá.
(3) Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó.
(4) Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
(5) Có căn cứ rõ ràng để chứng minh người đó không vô tư trong khi thực hiện định giá.
(6) Người đang trong thời gian thi hành kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên.