Theo quy định tại Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, 2022 về điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ như sau:
Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa;
2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Như vậy, theo quy định trên thì nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện bao gồm:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa;
- Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.

Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu mới nhất là gì? Một số bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ nhãn hiệu đã được bảo hộ (hình từ internet)
Theo Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, 2022 quy định về việc xem xét, đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng được lựa chọn từ một số hoặc tất cả các tiêu chí sau đây:
(1) Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo;
(2) Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành;
(3) Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;
(4) Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;
(5) Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;
(6) Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
(7) Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;
(8) Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Tóm tắt nội dung: Công ty M kiện Công ty F vì sử dụng dấu hiệu "MEKONG FOODS" quảng cáo nước mắm, cho rằng xâm phạm nhãn hiệu "MEKONG" của mình. Công ty M yêu cầu chấm dứt, đổi tên thương mại và bồi thường. Công ty F không thừa nhận hành vi xâm phạm, cho rằng nhãn hiệu và tên thương mại của mình có khả năng phân biệt, đồng thời phủ nhận việc quảng cáo sản phẩm trên website như nguyên đơn trình bày. Tòa án sơ thẩm bác đơn kiện. Công ty M kháng cáo. Tòa phúc thẩm cuối cùng không chấp nhận kháng cáo của Công ty M.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
- Tóm tắt nội dung: Ông Đặng Văn T kiện ông Nguyễn Anh P về việc sử dụng nhãn hiệu "Trí Hằng II", cho rằng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu "TH TRI HANG Quán N1" đã được bảo hộ của ông. Ông T yêu cầu ông P chấm dứt sử dụng, tháo dỡ bảng hiệu và thông báo cải chính trên truyền thông. Ông P trình bày được ông T sang nhượng quán "Trí Hằng" và đồng ý cho sử dụng tên. Ông P đăng ký kinh doanh "Trí Hằng II". Sau đó, ông T đăng ký nhãn hiệu "TH TRI HANG Quán N1" và kiện ông P.
Tòa án sơ thẩm buộc ông P ngừng dùng nhãn hiệu "Trí Hằng II" và tháo dỡ bảng hiệu theo yêu cầu của ông T. Ông P kháng cáo nhưng tòa phúc thẩm giữ nguyên quyết định sơ thẩm, xác định nhãn hiệu ông P gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã bảo hộ của ông T.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Tóm tắt nội dung: Công ty N (Thụy Sỹ) kiện Công ty Dược phẩm Đ1 vì cho rằng công ty này sản xuất thuốc Vigorito chứa hoạt chất Vildagliptin, vi phạm bằng độc quyền sáng chế số 5529 của N. N yêu cầu Đ1 chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại và xin lỗi công khai.
Đ1 cho rằng không vi phạm vì đã tra cứu thông tin sáng chế và không tìm thấy thông tin bảo hộ hoạt chất Vildagliptin. Đ1 cũng cho rằng bằng độc quyền sáng chế của N không bảo hộ dạng tinh thể của Vildagliptin, là dạng hoạt chất trong thuốc Vigorito.
Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của N. Đ1 kháng cáo, cho rằng N không còn quyền khởi kiện khi tòa thụ lý lại vụ án vì bằng sáng chế đã hết hạn, và tòa sơ thẩm không trưng cầu giám định chuyên môn. Tòa phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của Đ1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
