15/06/2024 17:07

Có phải chồng không được phép ly hôn dù vợ đang có thai, sinh con với ai kể từ ngày 01/7/2024?

Có phải chồng không được phép ly hôn dù vợ đang có thai, sinh con với ai kể từ ngày 01/7/2024?

Chồng có được phép ly hôn dù vợ đang có thai với người khác không? Hướng dẫn mới về trường hợp vợ chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải không thành như thế nào?

Ngày 01/7/2024, Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán tối cao Tòa án nhân dân tối cao ban hành về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân gia đình chính thức có hiệu lực. Trong đó, quy định về trường hợp chồng không có quyền đơn phương ly hôn vợ đã được hướng dẫn chi tiết hơn.

1. Có phải chồng không được phép ly hôn dù vợ đang có thai, sinh con với ai kể từ ngày 01/7/2024?

Tại khoản 3 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn được quy định như sau: Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Tuy nhiên, tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP đã hướng dẫn áp dụng quy định trên cụ thể và chi tiết hơn. Cụ thể, tại khoản 4, điểm a khoản 6 Điều 2 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP có quy định như sau:

Điều 2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình

1. “Đang có thai” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.

2. “Sinh con” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;

b) Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;

c) Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.

3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.

4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.

5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.

6. Trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của chồng như sau:

a) Chồng của người mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

b) Chồng của người nhờ mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, trường hợp vợ đang có thai, sinh con với bất kỳ người nào hoặc vợ đang mang thai, sinh con hộ người khác thì người chồng không được phép ly hôn với vợ.

Tuy nhiên, đây không phải là quy định mới vì Luật Hôn nhân và gia đình 1959, 1986, 2000, 2014 đều không có quy định về việc phân biệt vợ đang mang thai con của ai. Nội dung này được thể hiện một cách rõ ràng tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP như sau:

"Theo quy định tại Điều 85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Luật chỉ quy định "vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi"; do đó, khi người vợ đang thuộc một trong các trường hợp này (không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người chồng có yêu cầu xin ly hôn, ..."

Có thể thấy, quy định chồng không được phép ly hôn dù vợ đang có thai, sinh con với ai đã có từ trước, đây không phải là quy định mới và không phải có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 mà đã tồn tại trước đó. 

2. Hướng dẫn mới về trường hợp vợ chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải không thành

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định: Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Theo đó, quy định trên được hướng dẫn cụ thể tại Điều 4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP như sau:

(1) “Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình” là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022.

(2) “Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia.

Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình.

(3) “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng;

- Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình;

- Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau;

- Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.

Nguyễn Phạm Hoàng Thuy
1931

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn