Trước đây, các trường hợp Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai được phép trả hồ sơ đăng ký đất đai của người sử dụng đất được quy định rõ tại Điều 11a Thông tư 33/2017/TT-BTNMT, cụ thể bao gồm các trường hợp sau:
- Không thuộc thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ.
- Hồ sơ không có đủ thành phần để thực hiện thủ tục theo quy định.
- Nội dung kê khai của hồ sơ không đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất và hợp lệ theo quy định của pháp luật.
- Thông tin trong hồ sơ không phù hợp với thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng ký hoặc có giấy tờ giả mạo.
- Khi nhận được văn bản của cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng Thừa phát lại yêu cầu tạm dừng hoặc dừng việc cấp Giấy chứng nhận đối với tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất là đối tượng phải thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự hoặc văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án; khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai về việc đã tiếp nhận đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản gắn liền với đất.
- Không đủ điều kiện thực hiện quyền theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật khác có liên quan.
Hiện hành thì Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chỉ được phép trả hồ sơ/từ chối hồ sơ đăng ký đất đai của người sử dụng đất trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định 101/2024/NĐ-CP, cụ thể gồm các trường hợp như sau:
- Không thuộc thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ hoặc hồ sơ không đầy đủ thành phần hoặc không đảm bảo tính thống nhất nội dung thông tin giữa các giấy tờ hoặc kê khai nội dung không đầy đủ thông tin theo quy định.
- Nhận được văn bản của cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng yêu cầu tạm dừng hoặc dừng việc đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thuộc đối tượng phải thi hành án theo quy định của pháp luật.
- Nhận được văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án.
- Nhận được văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc đã thụ lý đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai hoặc đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản gắn liền với đất.
- Nhận được văn bản của Tòa án nhân dân có thẩm quyền về việc đã thụ lý đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản gắn liền với đất.
- Nhận được văn bản của Trọng tài Thương mại Việt Nam về việc thụ lý đơn giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai, tài sản gắn liền với đất.
- Nhận được văn bản yêu cầu dừng thực hiện thủ tục hành chính về đất đai để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan có thẩm quyền.
- Trường hợp đăng ký biến động đất đai do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất mà quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đang được thế chấp và đã đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai nhưng hồ sơ đăng ký nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho không có văn bản của bên nhận thế chấp về việc đồng ý cho bên thế chấp được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
- Trường hợp chủ đầu tư đã thế chấp và đăng ký thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặc nhà ở hình thành trong tương lai, dự án đầu tư xây dựng công trình không phải là nhà ở, dự án đầu tư nông nghiệp, dự án phát triển rừng, dự án khác có sử dụng đất hoặc công trình xây dựng thuộc các dự án này tại Văn phòng đăng ký đất đai, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai mà chủ đầu tư chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bán tài sản gắn liền với đất nhưng chưa thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi để rút bớt tài sản thế chấp là tài sản đã chuyển nhượng, đã bán, trừ trường hợp bên nhận thế chấp và bên mua tài sản có thỏa thuận về việc tiếp tục dùng tài sản này làm tài sản thế chấp và thực hiện đăng ký thay đổi bên bảo đảm theo quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Như vậy, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chỉ được phép từ chối, trả hồ sơ đăng ký đất đai của người sử dụng đất trong những trường hợp đã nêu trên, các trường hợp được quy định tương ứng với từng thời điểm áp dụng Luật Đất đai 2013 và Luật Đất đai 2024.
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết định hành chính cá biệt, hành vi hành chính của cơ quan quản lý hành chính có xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong trường hợp Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai ban hành văn bản từ chối hồ sơ cấp đăng ký đất đai của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân vẫn có thể khởi kiện bằng một vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là đối tượng khởi kiện là hành vi trả hồ sơ hay văn bản trả hồ sơ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai? và chủ thể bị khởi kiện là Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai hay Văn phòng đăng ký đất đai?
Vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao đã có nhận định tại Công văn 207/TANDTC-PC năm 2024 thông báo kết quả giải đáp vướng mắc trong công tác xét xử vụ án hành chính do Tòa án nhân dân tối cao ban hành như sau:
Hỏi: Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai ban hành văn bản gửi Ủy ban nhân dân xã có nội dung: Trả lại hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người có đơn yêu cầu. Trong phần nơi nhận có tên người yêu cầu và đã gửi văn bản này cho người yêu cầu. Người yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính đối với văn bản trả lại hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này xác định đối tượng khởi kiện như thế nào?
Giải đáp: Theo quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP, Điều 1, Điều 3 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 04/4/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, Điều 84, khoản 2 Điều 567 Bộ luật Dân sự thì Văn phòng đăng ký đất đai chịu trách nhiệm trước việc thực hiện nhiệm vụ được giao của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai trong phạm vi được ủy quyền.
Trường hợp này, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai có thẩm quyền tiếp nhận Hồ sơ đăng ký đất đai nhưng không tiếp nhận. Vì vậy, đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai.
Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao thì trường hợp này phải xác định đối tượng khởi kiện là hành vi trả hồ sơ của Văn phòng đăng ký đất đai và chủ thể bị kiện sẽ là Văn phòng đăng ký đất đai chứ không phải Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai.