07/06/2022 17:42

Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người

Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người

Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người là những hành vi được quy định tại các điều từ Điều 141 đến Điều 147 và từ Điều 150 đến Điều 156 BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của người khác.

Các tội phạm cụ  thể xâm phạm nhân phẩn, danh dự bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm (Điều 143); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Tội mua bán người (Điều 150); Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152); Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153); Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người 154); Tội làm nhục người khác (Điều 155); Tội vu khống (Điều 156). Trong đó:

1. Tội hiếp dâm

Theo quy định tại Điều 141 BLHS, thì:

- Thứ nhất, việc áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chưa được thống nhất về nhận thức. Hiện nay, vẫn có quan điểm cho rằng mức hình phạt trong khung liền kề nhẹ hơn mức hình phạt quy định tại khoản 2 được áp dụng đối với người phạm tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là mức hình phạt được quy định tại khoản 1 là tù từ 02 năm đến 07 năm mà không phải là mức hình phạt quy định tại đoạn 1 khoản 4 là từ từ 05 năm đến 10 năm. Đối với người lần đầu phạm tội với vai trò là giúp sức trong vụ án về tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (quy định tại khoản 3 Điều luật này) có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có thể xử phạt với mức hình phạt được quy định tại khoản 1 là tù từ 02 năm đến 07 năm mà không phải là mức hình phạt quy định tại đoạn 1 khoản 4 là từ từ 05 năm đến 10 năm. Chúng tôi cho rằng, đối với trường hợp hiếp dâm người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thì khung liền kề nhẹ hơn của khoản 2 là Đoạn 1 khoản 4 Điều 141 BLHS. Bởi lẽ, về kỹ thuật lập pháp và căn cứ vào độ tuổi của nạn nhân có thể cho rằng, tại Điều 141 BLHS quy định hai tội phạm là: Tội hiếp dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên; và Tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo đó:

+ Tội hiếp dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên có cấu tạo lần lượt là khoản 1, khoản 2 và khoản 3. Trong đó, khoản 1 là cấu thành định tội; khoản 2 và 3 là cấu thành tăng nặng định khung hình phạt.

+ Tội hiếp dâm dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có cấu tạo lần lượt là đoạn 1 khoản 4, khoản 2 và khoản 3. Trong đó, đoạn 1 khoản 4 là cấu thành định tội; khoản 2 và 3 là cấu thành tăng nặng định khung hình phạt. Tuy nhiên, vẫn chưa được cấp có thẩm quyền hướng dẫn thống nhất áp dụng.

- Thứ hai, tại khoản 3 chưa quy định chế tài xử lý đối với hành vi phạm tội hiếp dâm gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tinh thần của nạn nhân từ trên 60% đến dưới 61%.

Để khắc phục những bất cập nêu trên, đề nghị:

 - Một là, tách Điều 141 BLHS thành 02 tội là Tội hiếp dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên và Tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn thống nhất áp dụng Điều luật này theo hướng chúng tôi phân tích tại điểm thứ nhất (nêu trên).

- Hai là, thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm a khoản 3 Điều 141 BLHS.

Nếu tách Điều 141 BLHS thành 02 tội, thì cân nhắc và quy định mức khởi điểm của khoản 2 và 3 Tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cao hơn mức khởi điểm của khoản 2 và 3 Tội hiếp dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo đó:

  “Điều... Tội hiếp dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Và “Điều... Tội hiếp dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ  năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

2. Tội cưỡng dâm

Ngoài hai bất cập như quy định tại Điều 141 BLHS về Tội hiếp dâm, quy định tại Điều 143 BLHS về Tội cưỡng dâm cũng tồn tại còn một bất cập nữa là quy định “dùng mọi thủ đoạn” để thực hiện hành vi cưỡng dâm. Việc dùng cụm từ “dùng mọi thủ đoạn” là không chính xác vì thực tế chỉ cần một thủ đoạn (bất cứ thủ đoạn nào) để thực hiện hành vi cưỡng dâm cũng bị coi là phạm tội. Để khắc phục, đề nghị tách Điều 143 BLHS thành 02 tội là Tội cưỡng dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên và Tội cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn thống nhất áp dụng Điều luật này theo hướng chúng tôi phân tích tại điểm thứ nhất (nêu trên). Đồng thời, bỏ từ “mọi” trong cụm từ “dùng mọi thủ đoạn) ở khoản 1 và thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm a khoản 3 Điều 143 BLHS.

Nếu tách Điều 143 BLHS thành 02 tội, thì cân nhắc và quy định mức khởi điểm của khoản 2 và 3 Tội cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cao hơn mức khởi điểm của khoản 2 và 3 Tội cưỡng dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo đó:

 “Điều... Tội cưỡng dâm nhười từ đủ 18 tuổi trở lên

1. Người nào dùng thủ đoạn khiến người từ đủ 18 tuổi trở lên lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: a) Nhiều người cưỡng dâm một người; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm: a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành  nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Và “Điều… Tội cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

1. Người nào dùng thủ đoạn khiến người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ …năm đến 10 năm: a) Nhiều người cưỡng dâm một người; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ… năm đến 18 năm: a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành  nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

3. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Quy định tại Điều 144 BLHS về Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng tồn tại 02 bất cập như quy định tại Điều 143 BLHS về Tội cưỡng dâm. Đó là sử dụng cụm từ “dùng mọi thủ đoạn” ở khoản 1 và chưa quy định trách nhiệm hình sự của hành vi cưỡng dâm gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Để khắc phụ bất cập này, đề nghị bỏ từ “mọi” trong cụm từ “dùng mọi thủ đoạn) ở khoản 1 và thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ từ trên 60% ở điểm b khoản 3 Điều 144 BLHS.

4. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Tại Điều 145 về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và Điều 146 về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi chưa quy định trách nhiệm hình sự trường hợp gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Để khắc phụ bất cập này, đề nghị thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm a khoản 2 Điều 145 và điểm a khoản 3 Điều 146 BLHS.

5. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 147 BLHS, thì “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chức kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Quy định nêu trên đã mở rộng nội hàm của tên tội danh “Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm” theo hướng coi người từ đủ 18 tuổi trở lên chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm cũng là chủ thể của tội phạm này. Mặt khác, Điều luật này cũng chưa quy định trách nhiệm hình sự trường hợp gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Để khắc phụ bất cập này, đề nghị bỏ cụm từ “hoặc trực tiếp chức kiến việc trình diễn khiêu dâm” ở khoản 1 và thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm a khoản 3 Điều 147 BLHS.

6. Tội lây truyền HIV cho người khác

Theo quy định tại khoản 1 Điều 148 BLHS, thì “Người nào biết mình bị nhiểm HIV mà cố ý truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị nhiễm HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù tù 01 năm đến 03 năm”. Nghiên cứu quy định tại Điều 148 BLHS, chúng tôi thấy:

- Thứ nhất, việc lây truyền HIV không chỉ bằng quan hệ tình dục mà còn có thể bằng các hình thức khác (như dùng chung kim tiêm, kim xăm hình, kim xâu tai…). Điều luật chỉ loại trừ trường hợp “nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị nhiễm HIV và tự nguyện quan hệ tình dục” là chưa bao hàm hết các trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị nhiễm HIV và chủ động để sự lây truyền đó diễn ra.

- Thứ hai, quy định tại điểm b khoản 2 “Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 (Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi) và Điều 145 (Tội giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) của Bộ luật này”. Với quy định này, thì trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cưỡng dâm người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi vẫn vị coi là phạm Tội lây truyền HIV cho người khác theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 148 BLHS. Quy định này xung đột với quy định tại Điều 141 (Tội hiếp dâm), Điều 143 (Tội cưỡng dâm) và Điều 144 (Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) BLHS. Bởi lẽ, tại cấc điều luật này đã quy định “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” là tình tiết tăng nặng định khung.

- Thứ ba,  việc truyền HIV cho người khác cúng có thể gây ra những thiệt hại như: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên; Làm nạn nhân tự sát. Tuy nhiên, tại Điều 148 BLHS chưa quy định những tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.

Để khắc phục những bất cập nêu trên, đề nghị:

- Một là, sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 148 BLHS như sau: “Người nào biết mình bị nhiểm HIV mà cố ý truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị nhiễm HIV và tự nguyện để sự lây truyền đó diễn ra, thì bị phạt tù tù 01 năm đến 03 năm”.

- Hai là, sửa đổi điểm b khoản 2 Điều 148 BLHS như sau: “Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 141, 142, 143, 144 và 145 của Bộ luật này”.

- Ba là, nghiên cứu bổ sung “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên; Làm nạn nhân tự sát làm các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của Tội phạm này.

 7. Tội cố ý truyền HIV cho người khác

Tại Điều 149 BLHS chưa quy định trách nhiệm hình sự trường hợp cố ý truyền HIV cho người khác gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Để khắc phụ bất cập này, đề nghị thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm c khoản 3 Điều 149 BLHS.

8. Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

Theo quy định tại Điều 153 BLHS, thì “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Chúng tôi cho rằng, hành vi khách quan của tội phạm này chưa phân biệt được hành vi “bắt cóc” quy định tại Điều 169 BLHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Mặt khác, tại Điều luật này chưa quy định trách nhiệm hình sự trường hợp chiếm đoạt người dưới 16 tuổi gây thương tích, gây tổn hại chao sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Để khắc phụ bất cập này, đề nghị:

- Thứ nhất, sủa đổi khoản 1 Điều luật ày theo hướng bổ sung cụm từ “trừ trường hợp quy định tại Điều 169 Bộ luật này” vào sau cụm từ “chiếm giữ người dưới 16 tuổi” như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, trừ trường hợp quy định tại Điều 169 Bộ luật này thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”

- Thứ hai, thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm c khoản 3 Điều 153 BLHS.

9. Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người; Tội làm nhục người khác và Tội vu khống

Tại Điều 154 BLHS về Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người chưa quy định trách nhiệm hình sự trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Tại Điều 155 và Điều 156 BLHS chưa quy định trách nhiệm hình sự trường hợp gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%. Để khắc phụ bất cập này, đề nghị thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60%” ở điểm b khoản 3 Điều 154, điểm a khoản 3 Điều 155 và điểm b khoản 3 Điều 156 BLHS.

Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử

37842

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]