- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
- Trích dẫn nội dung: “Vào khoảng năm 2007, 2008, do sự áp lực của gia đình nên giữa anh B và anh D có ký một giấy tay với nội dung trao đổi đất giữa hai bên, anh D giao cho anh B số tiền 40.000.000đ để bù lại diện tích đất dư. Tuy nhiên, sau đó suy nghĩ lại anh B nhận thấy việc trao đổi diện tích đất là thiệt thòi, trong khi đó, vợ anh là chị H cũng không đồng ý. Nay anh D khởi kiện, anh B, chị H không đồng ý và yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật theo hướng tuyên bố hợp đồng trao đổi quyền sử dụng đất ngày 11/01/2003 vô hiệu.”
- Kết quả giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
- Trích dẫn nội dung: “Khi đổi hai bên chỉ viết giấy tay với nhau; không làm hợp đồng đổi ruộng theo đúng quy định của pháp luật; không thông qua chính quyền địa phương; giấy đổi ruộng không ghi cụ thể ngày tháng năm, địa điểm viết giấy và chỉ có ông L và ông D đại diện cho hai gia đình ký vào giấy đổi ruộng; các thành viên gia đình ông L đều trình bày không biết, không đồng ý việc ông L đại diện gia đình đổi ruộng; sau khi hai bên đổi ruộng đã trực tiếp canh tác ruộng đã đổi nhưng không làm bất kỳ thủ tục gì, không thông báo cho chính quyền, không đăng ký kê khai diện tích ruộng đã đổi để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật chỉnh lý hồ sơ địa chính.”
- Kết quả giải quyết: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ việc đổi ruộng có bắt đầu từ thời gian nào và giá trị pháp lý việc đổi ruộng có hiệu lực hay vô hiệu, từ đó dẫn đến việc thu thập, đánh giá chứng cứ không toàn diện
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
- Trích dẫn nội dung: “Năm 1999, gia đình ông đổi 360m2 đất cho gia đình ông N.V.T. và bà N.T.NG. cùng thôn. Việc đổi đất hai bên gia đình có làm giấy viết tay và có thỏa thuận rằng khi nào gia đình nhà ông có nhu cầu sử dụng lại thửa đất số 269/3 thì hai gia đình sẽ trả lại đất. Việc chuyển đổi này chỉ là thỏa thuận của hai bên, không thực hiện thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.”
- Kết quả giải quyết: Hủy hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai
- Trích dẫn nội dung: “Vào khoảng năm 2007, 2008 do sự áp lực của gia đình nên giữa ông B và ông D có ký một giấy tay với nội dung trao đổi đất giữa hai bên, ông D giao cho ông B số tiền 40.000.000đ để bù lại diện tích đất dư. Tuy nhiên sau đó suy nghĩ lại ông B nhận thấy việc trao đổi diện tích đất là thiệt thòi cho ông B và vợ ông là bà H cũng không đồng ý. Nay ông D khởi kiện yêu cầu ông B tiếp tục thực hiện hợp đồng trao đổi quyền sử dụng đất thì ông B và bà H không đồng ý và yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật theo hướng tuyên bố hợp đồng trao đổi quyền sử dụng đất ngày 11/01/2003 vô hiệu.”
- Kết quả giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Lê Trường D và ông Lê Quốc B.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 13/11/1994 thỏa thuận đổi đất cho nhau, hai bên có viết giấy tay. Theo đó bà T giao cho ông H 2.500m2 đất ruộng (đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), ông H giao cho bà T 2.200m2 đất vườn, trong đó có 300m2 đất thổ cư. Phần đất này ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000365 ngày 26/9/1991, diện tích 1.700m2, tại thửa số 96, tờ bản đồ số 01, thời hạn sử dụng đất lâu dài.”
- Kết quả giải quyết: Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất vào năm 1994 giữa ông Phan Văn H với bà Phan Thị T có hiệu lực.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
- Trích dẫn nội dung: “Tờ hợp đồng trao đổi đất ruộng ngày 25/12/2000 và giấy trao đổi sử dụng đất nông nghiệp ngày 02/02/2001 thể hiện bà Phan Thị R và ông Phan Văn T đã thỏa thuận lập giấy tay chuyển nhượng và chuyển đổi quyền sử dụng đất cho ông Thái V. Phần chuyển nhượng của bà R là 1000m2, phần chuyển nhượng của ông T là 1.734,3m2 và từ năm 2001 ông Thái V đã thực hiện giao tiền và nhận đất để sử dụng có sự chứng kiến và xác nhận của ông Trần Văn H5, ông Phan Văn C.”
- Kết quả giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng và chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
- Trích dẫn nội dung: “Vợ chồng ông Mai Xuân Y, bà Nguyễn Thị K đổi thửa đất số 390 tờ bản đồ số 5 diện tích đất 336 m2 tọa lạc tại buôn Y A, xã E, huyện C, cùng toàn bộ tài sản trên đất và một số tài sản khác cho Bà H Y Niê để lấy quyền sử dụng thửa đất số 120 tờ bản đồ số 26 diện tích 1.005 m2 tọa lạc tại buôn Y A, xã E, huyện C, trên đất không có tài sản gì. Bà H Y có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông Y số tiền 30.000.000 đồng. Việc chuyển đổi quyền sử dụng đất được hai bên viết giấy tay (Biên bản trao đổi đất), không có công chứng, chứng thực.”
- Kết quả giải quyết: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm về công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất.