28/12/2021 14:10

05 bản án về tranh chấp quyền sở hữu nhà

05 bản án về tranh chấp quyền sở hữu nhà

Nhà ở là một trong những tài sản có giá trị lớn. Không phải ai xây dựng nhà trên đất thì cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Vì một số lý do mà chủ sở hữu nhà không thể trực tiếp đứng tên trên giấy chứng nhận mà phải nhờ người người khác đứng tên thay, từ đó phát sinh nhiều tranh chấp về sau.

Dưới đây, là tổng hợp các bản án có nội dung về tranh quyền sở hữu nhà, mời các bạn tham khảo:

1. Bản án 179/2017/DS-PT về tranh chấp quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội

- Trích dẫn nội dung: “Năm 1973 cụ T đã cho vợ chồng bà sang đất này để xây dựng nhà ở riêng. Gia đình bà đã xây dựng 01 nhà cấp 4 gồm 4 gian ở ổn định trên đất này từ năm 1973 cho đến nay. Quá trình ở gia đình bà đã nộp thuế nghĩa vụ cho nhà nước và không có tranh chấp với ai. Năm 1960 đất này là loại đất mầu và lúa. Năm 1987 thửa đất này đã đứng tên kê khai chủ sử dụng đất ông Nguyễn Văn N, loại đất thổ cư. Đến năm 1994 thửa đất vẫn đứng tên ông Nguyễn Văn N, loại đất thổ cư. Năm 1997, gia đình bà đã làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân xã cũng đã làm các thủ tục cho gia đình bà kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có đơn yêu cầu ngừng cấp giấy của ông P nên gia đình bà chưa được cấp. Ông P cho rằng: phần diện tích đất đang có tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn T đã cho ông và ông N. Khi cho không đo đạc cụ thể, không có giấy tờ. Gia đình ông đã xây dựng nhà vách đất năm 1983 ở nhưng đến nay đã bị phá hết không còn tài liệu chứng cứ để chứng minh.”

2. Bản án 63/2019/DS-PT ngày 11/03/2019 về tranh chấp quyền sở hữu nhà

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

- Trích dẫn nội dung: “Nhà đất 82 HMĐ, Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh (nhà đất 82 HMĐ) do bà H và chồng là ông Vương Diệu V mua năm 1960 của bà Trần Thị Gi. Sau đó, vợ chồng bà H cùng các con sinh sống tại căn nhà trên. Để chuẩn bị đi nước ngoài nên sau ngày 30/4/1975, bà H có nhờ anh chồng là Vương Diệu K quản lý, trông coi dùm. Năm 1983, ông K chết nên các con ông K là Bà H2 và bà A tiếp tục trông coi, quản lý. Năm 2002, vợ chồng bà H hồi hương và được xét duyệt nhập lại hộ khẩu vào căn nhà trên cho đến nay. Tuy nhiên, bà H vẫn thường xuyên ra nước ngoài rồi lại về Việt Nam. Năm 2009, ông V chết. Năm 2014, bà H phát hiện Bà H2 và bà A đã làm thủ tục đứng tên sở hữu đối với nhà đất 82 HMĐ nên đã làm đơn ngăn chặn mọi giao dịch dân sự liên quan đến nhà đất trên và yêu cầu Bà H2, bà A giao trả lại nhưng Bà H2, bà A không đồng ý, sau đó đã làm thủ tục sang tên cho Ông Th, bà Tr nhằm mục đích tẩu tán tài sản.”

3. Bản án 06/2018/DS-PT ngày 16/01/2018 về tranh chấp quyền sở hữu nhà

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

- Trích dẫn nội dung: “Ông T và bà H1 kết hôn tại Hoa Kỳ và ly hôn năm 2012. Trước khi ly hôn, ông có về Việt Nam thăm gia đình vợ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vì muốn có chỗ ở khi về Việt Nam nên ông đã mua thửa đất diện tích 4,5mx20m tại khu dân cư N-B. Thời điểm này do không đủ điều kiện đứng tên chủ quyền nhà tại Việt Nam nên ông có nhờ mẹ vợ là bà N đứng tên giùm. Ông đã chuyển tiền mua đất thông qua công ty VN USA Enterprises 2 lần: Ngày 14/6/2011 chuyển số tiền 20.000 USD, ngày 09/8/2011 chuyển số tiền 20.000 USD, tổng cộng là 40.000 USD, việc chuyển tiền đều có biên nhận. Ngoài ra, thông qua người thân quen trong gia đình ông còn gửi tiền cho bà N nhiều lần để có chi phí xây nhà.. Toàn bộ tiền mua đất, tiền vật tư, công thợ, mua sắm đồ trang trí nội thất đều là tiền của ông, bà N là người nhận tiền do ông gửi về từ Hoa Kỳ, mỗi lần nhận tiền bà N đều có xác nhận bằng email. Khi công trình hoàn thành, ông dự định sẽ hồi hương về Việt Nam nên đã đề nghị bà N hoàn trả lại tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà nêu trên nhưng bà N không đồng ý. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà N trả lại cho ông căn nhà Đường 1C, khu dân cư N-B, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.”

4. Bản án 120/2018/DS-PT ngày 08/06/2018 về tranh chấp quyền sở hữu nhà

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

- Trích dẫn nội dung: “Sau khi ông Th1 chết, bà H3 đứng tên thuê nhà và đóng thuế nhà đất theo Hợp đồng thuê nhà số 2201/CNTP91. Ngày 20/6/1991, bà H3 lập giấy ủy quyền với nội dung ủy quyền cho ông T được toàn quyền thay mặt bà để hoàn tất hồ sơ, thủ tục mua hóa giá căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào thời điểm hợp thức hóa, trong hộ khẩu căn nhà tại Cư xá Đ có 08 người cư trú gồm: Bà Trần Thị H3, gia đình ông Trần Hoàng Ngọc H (03 người), gia đình ông Trần Hoàng Ngọc T (03 người) và ông Trần Hoàng Ngọc C. Đối với phần diện tích nhà ông H đang ở có nguồn gốc nguyên trước đây là thuộc phần sân của căn nhà, khoảng năm 1979 – 1980, ông H đã xây dựng phần diện tích nói trên để ở, sau khi giải tỏa mở hẻm, thì ông có cơ nới thêm để có diện tích như hiện nay, không có giấy phép xây dựng. Đến năm 2011, ông mới phát hiện vợ chồng ông T đã tự ý sang tên và đứng tên sở hữu căn nhà nói trên từ 1993.”

5. Bản án 54/2018/DS-PT ngày 16/01/2018 về tranh chấp quyền sở hữu nhà ở

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

- Trích dẫn nội dung: “Nhà đất tại địa chỉ số 102/45/11/5 đường PHI có nguồn gốc là của bà B bán cho ông T, ông T nhờ ông H2 và bà H3 đứng tên dùm. Ngày 29/5/2005, ông T bán nhà đất nêu trên cho bà H, hai bên có lập hợp đồng mua bán nhưng chưa được công chứng. Mặt khác, tại thời điểm ông T và bà H xác lập giao dịch mua bán nhà thì nhà đất đã được ông T thế chấp tại Ngân hàng E để vay tiền. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng vô hiệu là có cơ sở. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là chưa giải quyết triệt để vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà H.”

Như Ý
3285

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn