Quyết định giám đốc thẩm 02/2016/HC-GĐT về khiếu kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO      

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 02/2016/HC-GĐT NGÀY 13/01/2016 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có 11/16 thành viên tham gia xét xử, ông Bùi Ngọc Hòa, Phó Chánh án thường trực Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa theo sự ủy quyền của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa là ông Phương Hữu Oanh, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thư ký ghi biên bản phiên tòa bà Trần Thị Lương, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tối cao.

Ngày 13/01/2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K.

- Người khởi kiện: Ông Trần Tiến N1, sinh năm 1959; trú tại đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Kiên Giang.

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K.

Địa chỉ: đường D, phường E, thành phố C, tỉnh Kiên Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Nhật N2, sinh năm 1951; đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Kiên Giang.

NHẬN THẤY

Diện tích đất 508,98m2 ông Nguyễn Nhật N2 sử dụng từ năm 1981 (đo thực tế là 624,83m2) có nguồn gốc một phần nhận chuyển nhượng của bà Ngô Thị L và một phần hoán đổi với bà Lê Thị T.

Diện tích đất ông Trần Tiến N1 sử dụng có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Đinh Công H ngày 04/10/1986 theo sơ đồ đất do ông H tự vẽ (khi xin phép cất nhà năm 1983) thì đất có chiều ngang 25m, chiều dài 42m, tổng diện tích 1.050m2.  Năm 1994, ông Trần Tiến N1 tranh chấp với ông N2 phần đất bờ dừa diện tích 58,41m2 (ngang trước 1,8m; ngang sau 1,5m; dài 35,4m).

Ngày 08/4/1999, Ủy ban nhân dân thị xã R ban hành Quyết định 165/QĐ- UB giải quyết tranh chấp và buộc ông N2 trả cho ông N1 diện tích 64,80m2  đất (ngang trước 1,8m, ngang sau 1,4m, dài 40,5m). Sau đó, ông N2 khiếu nại và ngày 07/6/2002, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K ban hành Quyết định số 1409/QĐ-CT điều chỉnh với nội dung công nhận một phần Quyết định số 165 và điều chỉnh cho ông N1 được sử dụng đất (theo giấy tờ chuyển nhượng) với chiều ngang trước là 25m, ngang sau 23,5m, dài 23,5m và 35,4m (đã trừ lộ giới) = 731m2, giữ nguyên phần mộ con ông N2 diện tích ngang 1,5m, dài 3,5m= 5,25m2 cho ông N2 sử dụng. Năm 2003, Ủy ban nhân dân thị xã R cưỡng chế buộc ông N2 giao trả cho ông N1 130m2 đất.

Do ông N2 tiếp tục khiếu nại và phát hiện có sai sót nên ngày 10/9/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K ban hành Quyết định số 2180/QĐ-UBND hủy Quyết định số 1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002, công nhận quyền sử dụng diện tích 58,41m2 đất tranh chấp cho gia đình ông Nguyễn Nhật N2 sử dụng và giao Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá chỉ đạo các ngành chức năng lập thủ tục bồi thường giá trị vật kiến trúc, công san lấp và hoa màu cho ông Trần Tiến N1.

Sau đó, ông Trần Tiến N1 có đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, giữ nguyên hiện trạng đất ông Trần Tiến N1 đang sử dụng.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2013/HC-ST ngày 28/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Tiến N1.

Ngày 07/6/2013, ông Trần Tiến N1 kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 196/2013/HC-PT ngày 30/9/2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Tiến N1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Tiến N1 đòi hủy Quyết định số 2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 của Chủ tịch y Ban nhân dân tỉnh K.

Sau khi có bản án phúc thẩm, ông Trần Tiến N1 có đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án phúc thẩm.

Ngày 28/5/2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị số 09/QĐ-KNGĐT-V12 kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 196/2013/HC-PT ngày 30/9/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản  án  hành  chính  phúc  thẩm  nêu  trên  và  Bản  án  hành  chính  sơ  thẩm  số 11/2013/HC-ST ngày 28/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Về thẩm quyền: Ngày 07/6/2002, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định số 1409/QĐ-CT giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Nhật N2. Sau đó, ông N2 có nhiều đơn khiếu nại quyết định này. Do Ban pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh K và Thanh tra Chính phủ có văn bản kiến nghị đề nghị thu hồi Quyết định số 1409/QĐ-CT, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K  đã xem xét lại và thấy Quyết định 1409/QĐ-CT là không đúng nên đã ban hành Quyết định số  2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 hủy bỏ Quyết  định  số  1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002 và công nhận 58,41m2 đất tranh chấp cho gia đình ông N2.

Việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K ban hành Quyết định số 2180/QĐ- UBND ngày 10/9/2009 hủy bỏ Quyết định số 1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002 và công nhận quyền sử dụng 58,41m2  đất tranh chấp cho gia đình ông N2 là đúng thẩm quyền, đúng quy định tại Điều 3 Luật  khiếu nại, tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi, bố sung năm 2005). Điều 3 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xem xét lại quyết định hành chính…của mình, nếu thấy trái pháp luật thì kịp thời sửa chữa, khắc phục…”. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng Quyết định số 1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002 đã có hiệu lực pháp luật, việc Ủy ban nhân dân tỉnh K tiếp tục thụ lý khiếu nại của ông N2 đối với Quyết định số 1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002 và ban hành Quyết định 2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất là sai thẩm quyền, không phù hợp với quy định của pháp luật là không đúng.

Về nội dung: Đất ông Nguyễn Nhật N2 sử dụng giáp ranh đất ông Đinh Công H (năm 1986 ông H mới chuyển nhượng cho ông Trần Tiến N1 sử dụng). Năm 1983, ông H có tranh chấp đất với ông N2 (gồm cả phần đất mương và đất bờ mương), Ủy ban nhân dân phường An Hòa đã hòa giải và hai bên đã thống nhất phần mương ông H sử dụng, phần bờ mương về phía cầu An Hòa ông N2 sử dụng (phần đất sau này ông N1 tranh chấp). Năm 1985, con ông N2 chết, ông N2 đã an táng ở phần đất phía sau trên bờ mương, ông H không có ý kiến. Năm 1986, ông H chuyển nhượng nhà đất cho ông N1, trong đơn chỉ ghi: “nhượng lại đất và căn nhà lá (theo hồ sơ gốc)”, không ghi diện tích đất. Theo Giấy phép số 177/UB-CP ngày 26/10/1983 của Ủy ban nhân dân thị xã R và Phòng xây dựng thì ông H được dựng một căn nhà (ngang 5m, dài 8,1m, cao 4,7m) bằng nguyên liệu cây lá, không xác định diện tích đất, nhưng ông H tự vẽ diện tích đất và ghi rộng 25m, dài 42m, trong đó phần giáp ranh đất ông N2 có con mương, không thể hiện bờ đất trồng dừa. Ông H là người chuyển nhượng đất cho ông N1 cũng thừa nhận: phần đất ông H từ mí mương trở lại, phần đất ông N2 từ mí mương (phần bờ dừa) trở ra cầu An Hòa. Như vậy, diện tích 58,41m2 đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông N2 từ trước khi ông N1 nhận chuyển nhượng nhà đất từ ông H.

Ông N1 chỉ tranh chấp với ông N2 diện tích 58,41m2 đất (phần đất bờ dừa), nhưng tại Quyết định 1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K lại căn cứ vào sơ đồ đất do ông H tự vẽ năm 1983 (rộng 25m, dài 42m) để cho rằng ông N1 thiếu 361,6m2  và điều chỉnh cho ông N1 được sử dụng đất có chiều ngang trước 25m, ngang sau 23,5m và 35,4m, diện tích 731m2 (đã trừ lộ giới) là không đúng diện tích đất tranh chấp. Vì vây, Quyết định số 2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K đã hủy bỏ Quyết định số 1409/QĐ-CT ngày 07/6/2002 và công nhận quyền sử dụng 58,41m2  đất tranh chấp cho gia đình ông N2 là có căn cứ và đúng pháp luật (thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành thanh tra và kết luận kiến nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận Quyết định số 2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý).

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Tiến N1 đề nghị hủy Quyết định số 2180/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K là có căn cứ, đúng pháp luật. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị hủy Bản án phúc thẩm số 196/2013/HC-PT ngày 30/9/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2013/HC-ST ngày 28/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm là không có cơ sở.

Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 219, khoản 3 Điều 225 Luật tố tụng hành chính.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận  Quyết  định kháng nghị số  09/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 28/5/2015 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Bản án hành chính phúc thẩm số 196/2013/HC-PT ngày 30/9/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

997
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Quyết định giám đốc thẩm 02/2016/HC-GĐT về khiếu kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai

Số hiệu:02/2016/HC-GĐT
Cấp xét xử:Giám đốc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tối cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 13/01/2016
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về