Quyết định GĐT xét xử vụ án hình sự đối với Trần Văn B về tội giết người số 05/2012/HS-GĐT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

QUYẾT ĐỊNH GĐT 05/2012/HS-GĐT NGÀY 26/03/2012 XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TRẦN VĂN B VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 26/3/2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Trần Văn B sinh năm 1970; trú quán: tổ x, thôn Lượng H, xã Vĩnh L, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: không; con ông: Trần Văn Đ và bà Trần Thị L; vợ anh là Trần Thị H và có 3 con; tiền án tiền sự: không; bị bắt ngày 02/01/2010.

Người bị hại: chị Trần Thị H, sinh năm 1974 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: bà Phạm Thị C, sinh năm 1950 (là mẹ chị H); trú tại: thông Cát L, xã Vĩnh L, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 29/10/2009, do nghi ngờ chồng là Trần Văn B lấy 10.000.000 đồng cho “gái” nên chị Trần Thị H bà B cãi nhau, B lấy ghế gỗ đánh chị H, nhưng được em Trần Văn Đ (là em trai chị H) can ngăn. Ngày hôm sau, giữa B và chị H vẫn tiếp tục cãi chửi nhau và đến khoảng 02 giờ ngày 02/11/2009, chị H ngồi làm lòng lợn, B nấu nước sôi để cạo lông lợn thì chị H chửi B về việc lấy tiền. Do tức giận, B lấy một cây gỗ dài khoảng 80cm, đường kính khoảng 10cm đứng phía sau lưng chị H đánh mạnh vào đầu chị H làm chị H gục xuống, B tiếp tục đánh hai, ba cái vào đầu chị H. Thấy chị H nằm bất động, B lấy hai con dao (một dao dùng để chặt thịt, một dao dùng để cạo lông lợn) chặt người chị H ra làm nhiều khúc rồi bỏ xuống hầm rút (qua lỗ thông hơi có đường kính 10cm) ở gần lò mổ lợn trong nhà B. Với những bộ phận cơ thể của chị H không bỏ qua được lỗ thông hơi thì B dùng dao chặt nhỏ và dóc thịt rồi bỏ xuống hẩm rút. Sau khi giết và phi tang xác chị H, B lấy quần áo, dép của chị H và cây gỗ dùng để đánh chị H bỏ vào lò lửa đang nấu nước sôi để đốt. Sau đó, B tháo điện thoại di động của chị H, lấy sim cất giữ rồi ném máy điện thoại xuống hầm rút. Khoảng 3 giờ cùng ngày, B lên gác gọi và nói với con trai là Trần Văn T (sinh năm 1995) là mẹ đã bỏ nhà đi và bảo T đến trông em là Trần Khánh L (sinh năm 2008). Đến 9 giờ ngày 02/11/2009, B lấy sim điện thoại của chị H lắp vào máy điện thoại của mình rồi nhắn tin cho chị Nguyễn Thị Lệ H (là bạn chị H) với nội dung “H lấy của B 350.000.000 đồng và trốn đi cùng người yêu qua Canada”, sau đó bẻ đôi sim điện thoại của chị H ném xuống suối sau nhà B.

Ngày 09/11/2009, B đến Công an xã Vĩnh L, thành phố Nha Trang trình bày về việc chị H mất tích, nhờ cháu ruột Trần Văn C đến trông nhà, chăm sóc các con của B và nhờ chị Hồ Thị Phương V (là bạn của B) đưa cho các con của B 4.500.000 đồng, cho chị V vay 10.000.000 đồng rồi bỏ trốn. Ngày 15/12/2009, biết tin con trai là Trần Văn P (sinh năm 1993) bị suy hô hấp phải điều trị tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa, B điện bảo C lấy xi măng xây bít lỗ thông hơi hầm rút. Do nghi ngờ B giết chị H giấu xác trong nhà, nên ngày 29/12/2009 anh Trần Văn Đ và anh Trần Văn T (đều là em chị H) đi tìm trong nhà B thì phát hiện thấy dấu xi măng bịt ống thông hơi của hầm rút, hai anh phá hầm rút và tìm thấy một số đoạn xương, nghi ngờ là xương người nên các anh đã báo Công an. Ngày 02/01/2010, biết tin Cơ quan điều tra đã tìm thấy bộ xương, B nhờ anh ruột là Trần Văn N đưa đến Công an thành phố Nha Trang đầu thú.

Tại bản giám định pháp y về tử thi số 46/PYHS/2010 ngày 12/01/2010, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Các phần xương và tổ chức phần mềm phát hiện được là của người, chưa xác định được giới tính độ tuổi; trên các phần xương người đã bị cắt rời thành nhiều mảnh, phát hiện các dấu vết sắc gọn, làm đứt lìa cấu trúc giải phẫu xương; các tổn thương phát hiện trên xương là do công cụ có lưỡi sắc, có trọng lượng tạo ra.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2010/HSST ngày 23/6/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa áp dụng các điểm i và n khoản 1 Điều 93; các điểm b và p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Trần Văn B tử hình về tội “Giết người”.

Ngày 30/6/2010, Trần Văn B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 352/2010/HSST ngày 20/9/201, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; các điểm b và p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm o khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; xử phạt Trần Văn B tù chung thân về tội “Giết người”.

Tại Kháng nghị số 22/2011/HS-TK ngày 19/9/2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 352/2010/HSPT ngày 20/9/2010 của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn B để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Hành vi phạm tội của Trần Văn B thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong quan hệ vợ chồng mà bị cáo đã dùng cây gỗ đánh liên tiếp vào đầu chị Trần Thị H cho đến khi chị H bất tỉnh. Sau đó, bị cáo dùng hai con dao chặt xác, dóc thịt, chặt nhỏ xương chị H làm nhiều đoạn rồi bỏ xuống hầm rút của lò mổ lợn. Hành vi phạm tội của bị cáo là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” và “có tính chất côn đồ”, đây là các tình tiết định khung hình phạt được quy định tại các điểm i và n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo còn có hành vi lấy quần áo, dép của chị H và hung khí gây án cho vào lò lửa đốt để phi tang. Dùng sim điện thoại của chị H nhắn tin cho bạn chị H, đến Công an xã giả báo tin chị H bỏ nhà đi, chỉ đạo cháu ruột dùng xi măng bịt lỗ thông hơi hầm rút để đánh lạc hướng và nhằm che giấu tội phạm của mình. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các điểm i và n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự; xử phạt tử hình đối với bị cáo là đúng pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng sau khi giết chị Trần Thị H, bị cáo chặt xác, dóc thịt cho xuống hầm rút để phi tang không phải là hành vi “thực hiện tội phạm một cách man rợ” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự mà chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự “có hành động xảo quyệt nhằm che giấu tội phạm”để giảm hình phạt xuống tù chung thân cho Trần Văn B là áp dụng không đúng pháp luật và đánh giá không đúng tính chất, mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra, khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia phiên tòa là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 3 Điều 285; Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 352/2010/HS-PT ngày 20/9/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn B để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật;

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để giải quyết theo thẩm quyền.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Quyết định GĐT xét xử vụ án hình sự đối với Trần Văn B về tội giết người số 05/2012/HS-GĐT

Số hiệu:05/2012/HS-GĐT
Cấp xét xử:Giám đốc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tối cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/03/2012
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về