Quyết định GĐT về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền số 07/2023/DS-GĐT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

 QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 07/2023/DS-GĐT NGÀY 10/02/2023 VỀ VIỆC TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN

Ngày 10/02/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền”; giữa các đương sự:

Ngun đơn: bà Trần Quỳnh Đ, sinh năm 1970; địa chỉ: K184/23, đường H, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Bị đơn: bà Trần Thị T, sinh năm 1964; địa chỉ: tổ 53 cũ (tổ 83 mới), phường B, quận T, thành phố Đà Nẵng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Hoàng Thị Thái H, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ 02, thôn Trung N, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng.

+ Bà Hoàng Thái N, sinh năm 1981. Hiện đang chấp hành án tại trại giam Bình Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

+ Bà Nguyễn Thị Hoàng A, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ 46, phường H, quận S, thành phố Đà Nẵng.

+ Ông Lê Văn T, sinh năm 1969 và bà Phùng Thị Vĩnh P, sinh năm 1975;

địa chỉ: tổ 68, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng.

+ Ông Phạm Thanh N, sinh năm 1965; địa chỉ: nhà số 56 đường H, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng.

+ Bà Hồ Minh N, sinh năm 1958; địa chỉ: Tổ 14, phường M, quận T, thành phố Đà Nẵng.

+ Bà Tạ Thị Thanh H, sinh năm 1968; địa chỉ: nhà số 98/38 đường H, tổ 103 phường Đ, quận S, thành phố Đà Nẵng.

+ Bà Nguyễn Thị E, sinh năm 1958; địa chỉ: nhà số 624 đường H, quận S, thành phố Đà Nẵng.

+ Bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ 25 phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Tại Đơn khởi kiện đề ngày đề ngày 20/7/2016 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Trần Quỳnh Đ trình bày:

Năm 2010, bà Đ có vay tiền nhiều lần của chị Trần Thị T, tổng cộng số tiền vay là 600.000.000đ, mỗi lần vay tiền đều viết giấy, cụ thể giấy tờ mượn tiền ngày 05/10 âm lịch mượn 200 triệu đồng, ngày 19/8/2011 âm lịch mượn 50 triệu đồng, Bà có cầm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) mang tên ông Lê Văn T, bà Phùng Thị Vĩnh P, ngày 03/12/2010 mượn 250 triệu đồng, ngày 28/01/2011 mượn 100 triệu đồng, Bà có cầm GCNQSDĐ mang tên Lê Thị V sau đổi lại GCNQSDĐ đứng tên ông Phạm Thành N. Việc vay mượn tiền nêu trên không thỏa thuận về lãi suất. Do làm ăn thua lỗ và biêu hụi bị vỡ nợ, Bà không có khả năng trả nợ. Do vậy, ngày 28/10/2011 tại Phòng Công chứng số 2, thành phố Đà Nẵng bà Trần Quỳnh Đ ký Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HĐGD cho bà T, với nội dung: Bên ủy quyền thuộc diện giải tỏa dự án Khu dân cư phía Nam Bệnh viện điều dưỡng và Phục hồi chức năng được Nhà nước bố trí 01 lô đất tái định cư hộ chính theo: “bản chính Thông báo” số 1674 do Công ty Xây lắp và Kinh doanh Nhà Đà Nẵng cấp ngày 30/5/2011, cụ thể như sau: địa chỉ thửa đất: lô đất hộ chính đường 5,5m có mặt sau tiếp giáp đường quy hoạch nội bộ dự án KDC phía Nam Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng, thành phố Đà Nẵng.

Bên A (Trần Quỳnh Đ) ủy quyền cho bên B (Trần Thị T) được quyền thay mặt bên A thực hiện các công việc sau:

- Được quyền nhận toàn bộ số tiền đền bù và hỗ trợ liên quan đến lô đất nêu trên.

- Đăng ký nhận đất tái định cư, đại diện ký biên bản giao nhận đất thực tế, ký hợp đồng, phụ lục hợp đồng nhận đất; Liên hệ xin giấy phép xây dựng nhà;

- Thay mặt nộp tiền đất, đại diện ký cam kết về việc chuyển đổi tên nhận quyền sử dụng lô đất trên tại cơ quan có thẩm quyền.

- Liên hệ xin cấp và nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thời hạn ủy quyền kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực đến khi hoàn tất các công việc ủy quyền hoặc khi hợp đồng hết hiệu lực theo quy định của pháp luật. Hợp đồng ủy quyền không có thù lao.

Mục đích bà Đ ký hợp đồng ủy quyền là để đảm bảo khoản tiền đã vay 600 triệu đồng của bà T nhưng sau đó giữa bà Đ và bà T có chốt lại với nhau số tiền vay là 550 triệu đồng (cấn trừ 50.000.000đ nhờ chạy lô đất 2 mặt tiền). Đối với hồ sơ nhà và đất trên bà Đ đã nhận 100.000.000đ tại Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng. Việc bà Đ đưa các giấy tờ đất trên cho bà T nhằm mục đích làm tin chứ không phải Bà bán lô đất cho bà T, hai bên cũng có cam kết trong giấy nhận nợ là sau này Bà có khả năng sẽ trả cho bà T 550 triệu đồng và chuộc lại lô đất trên. Bà Đ có viết giấy ghi rõ nội dung trên nhưng bà Đ không giữ giấy này mà do bà T giữ.

Ngoài số tiền nợ 550 triệu đồng trên bà Đ không còn nợ bà T đồng nào nữa. Tuy nhiên, bà T trình bày không có giữ tờ giấy nào đối với số nợ 550 triệu đồng mà xuất trình 03 tờ giấy nợ tổng cộng số tiền 600.000.000đ nên bà Đ đồng ý trả lại cho bà T 600.000.000đ.

Đối với giấy nhận tiền do bà Hoàng Thị Thái H viết ngày 05/11/2011 và giấy nhận tiền ngày 25/12/2012 về việc nhận tiền của bà T, bà Đ không xác nhận do Bà không viết và Bà không biết về số tiền này.

Ngoài ra, đối với giấy mời biêu ngày 10/11/2010 (âm lịch) bà Đ làm cái và có mời biêu nhưng do biêu áp cái nhưng không ai chơi và không ai nộp nên không có khoản tiền nợ như bà T cung cấp.

Đối với trình bày của bà Hoàng Thị Thái H thì bà Đ cho rằng bà không thế chấp hồ sơ giải tỏa lô đất trên cho bất cứ ai mà đưa trực tiếp hồ sơ cho bà T, bà không biết bà H và bà N.

Do vậy, bà Đ yêu cầu Tòa án tuyên chấm dứt Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HDGD ngày 28/10/2011 giữa bà Đ và bà T để bà Đ đi làm thủ tục nhà đất.

Đối với yêu cầu phản tố của bà Trần Thị T, bà Đ chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà T về việc trả lại cho số tiền 600.000.000đ theo các giấy mượn tiền vào các ngày 5/10 âm lịch, 19/8/2011, ngày 3/12/2010, ngày 28/1/2011. Các khoản tiền yêu cầu phản tố khác của bà T bà Đ không đồng ý.

- Tại Đơn phản tố đề ngày 04/01/2017 và trong quá trình tố tụng, bị đơn bà Trần Thị T trình bày:

Bà T và bà Đ có mối quan hệ thân thiết nhiều năm. Vào năm 2010, hai Bà có tham gia chơi biêu, hụi và đến năm 2011, bà Đ rơi vào cảnh nợ nần. Vì nghĩ tình chị em lâu năm nên bà T đã đứng ra trả một số khoản nợ thay cho bà Đ 600 triệu đồng (có giấy nợ kèm theo). Trong đó, giấy mượn tiền ngày 05/10 âm lịch mượn 200 triệu đồng, giấy mượn tiền ngày 19/8/2011 âm lịch mượn 50 triệu đồng bà Đ có cầm GCNQSDĐ mang tên ông Lê Văn T, bà Phùng Thị Vĩnh P, giấy mượn tiền ngày 03/12/2010 mượn 250 triệu đồng và giấy mượn tiền ngày 28/01/2011 mượn 100 triệu đồng bà Đ có cầm GCNQSDĐ mang tên Lê Thị V sau đổi lại giấy chứng nhận đứng tên ông Phạm Thanh N.

Ngoài khoản tiền mượn 600 triệu trên, bà Đ còn nợ chị Hoàng Thị Thái H, trú tại tổ 13, quận L, Đà Nẵng số tiền biêu hụi là 280 triệu đồng và 550 triệu đồng tiền vay nợ. Bà Đ thế chấp hồ sơ giải tỏa lô đất tái định cư đường 5,5m có mặt sau tiếp giáp với đường quy hoạch nội bộ dự án Khu dân cư phía nam Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng thành phố Đà Nẵng đối với với số tiền 550 triệu đồng nợ của bà H. Do không có tiền trả nợ nên bà Đ nhờ bà T trả toàn bộ số tiền trên cho bà H để bà Đ rút hồ sơ gốc lô đất giải tỏa trên về chuyển nhượng cho bà T dưới hình thức ký kết Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HDGD ngày 28/10/2011 với nội dung ủy quyền như bà Đ trình bày, vì hồ sơ giải tỏa của bà Đ chưa được cấp cấp đất cụ thể về vị trí, số lô, số thửa nên không thể ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được.

Tiếp đến ngày 25/12/2012, bà T trả đủ 280 triệu tiền nợ biêu cho chị H giúp cho bà Đ. Ngoài ra, vào ngày 25/2/2012 âm lịch bà H còn làm chủ 1 dây biêu vàng, 1 tháng đóng 3 chỉ vàng 999 (SIC) trong đó bà Đ tham gia chân biêu, do bà Đ không quen biết bà H nên mỗi lần giao vàng thông qua bà T. Bà Đ đóng được 2 chân biêu tổng cộng 6 chỉ vàng 999, tháng thứ 2 bà Đ hốt biêu, đến tháng thứ 3 bà Đ tuyên bố vỡ nợ và không nộp biêu nữa nên bà T đứng ra nộp thay tổng cộng 24 chỉ vàng (8 chân biêu), tương đương là 84 triệu đồng.

Sau khi ký nhận chuyển nhượng lô đất giải tỏa của bà Đ dưới hình thức Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/10/2011, bà T đã liên hệ với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng để được nhận đất nhưng do đất đang thuộc diện giải tỏa, chưa được bố trí đất thực tế nên không thể nhận đất và sang tên cho bà T được. Nay bà Đ yêu chấm dứt hợp đồng ủy quyền trên thì Bà không đồng ý. Vì thực tế giữa B và bà Đ có quan hệ vay mượn tiền với nhau. Bà Đ nợ Bà số tiền vay mượn, tiền biêu tổng cộng là 1.654.000.000 đồng. Do không có tiền trả nợ nên bà Đ đã chuyển nhượng lô đất trên cho bà dưới hình thức Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/10/2011. Trường hợp bà Trần Quỳnh Đ muốn lấy lại lô đất thì phải định giá theo giá thị trường trả lại tiền cho bà.

Ngoài ra, bà T còn có yêu cầu phản tố yêu cầu bà Đ phải trả lại cho Bà tổng cộng các khoản nợ 1.654.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm bà T tự nguyện rút một phần yêu cầu phản tố đối với khoản tiền biêu, hụi là 504.000.000 đồng để chuyển cơ quan điều tra đề nghị xử lý. Số tiền yêu cầu phản tố còn lại bà T yêu cầu bà Đ phải trả là 1.150.000.000 đồng.

Đối với yêu cầu độc lập của ông Lê Văn T và bà Phùng Thị Vĩnh P về việc đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Bà đang giữ Bà đồng ý, tuy nhiên Bà đợi kết quả Tòa án giải quyết xong vụ này để làm rõ sự việc.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Hoàng Thị Thái H trình bày: Vào ngày 10/11/2010 âm lịch bà Đ có cầm chân biêu gồm 14 chân biêu cho 14 người. Do không quen biết bà Đ nên Bà nhờ bà T đứng ra chơi dùm 2 phần biêu mỗi chân biêu là 10 triệu đồng/tháng. Đến ngày 25/12/2012 hốt biêu, bà Đ là chủ cái nhưng không trả tiền biêu cho Bà nên bà Trần Thị T đứng ra chồng đủ chân biêu cho Bà thay bà Đ số tiền 280 triệu đồng (Bà có viết giấy nhận tiền để xác nhận sự việc vào thời gian đó). Ngoài ra, cuối tháng 10/2011 chị gái Bà là Hoàng Thái N có đem 01 hồ sơ đất giải tỏa tái định cư đường 5m5 mặt sau tiếp giáp Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng thành phố Đà Nẵng đứng tên bà Trần Quỳnh Đ nhờ Bà cầm số tiền 550 triệu đồng để đáo hạn Ngân hàng trong vài ngày và sẽ hoàn trả để lấy lại hồ sơ. Tuy nhiên, sau 3 ngày do xác định không có khả năng trả lại cho Bà, bà N đã dẫn bà Trần Thị T đến để mượn hồ sơ lại và chịu trách nhiệm trả cho Bà số tiền trên trong vòng 5 ngày. Đúng hẹn, bà T đã trả lại cho Bà 550 triệu đồng và Bà trả hồ sơ đất cho bà T. Vào ngày 05/11/2011, Bà viết giấy nhận tiền để xác nhận sự việc trên. Tổng số tiền Bà nhận từ bà T là 830.000.000 đồng.

+ Bà Nguyễn Thị Hoàng A trình bày: Vào ngày 10/11/2010 âm lịch bà Đ có làm chủ một dây biêu gồm 14 chân biêu, mỗi chân biêu 10 triệu đồng, bà có tham gia 1 chân biêu. Những người chơi trong dây biêu bao gồm: bà Đ 2 chân biêu, bà T 3 chân biêu, bà Hồ Minh N 1 chân biêu, Minh A 01 chân biêu, bà H 1 chân biêu, bà H 1 chân biêu, bà Hà P 1 chân biêu, bà T 1 chân biêu, bà L 1 chân biêu. Đến lần chân biêu đầu tiên bà Đ có bảo Bà chồng cho bà Đ 1 chân biêu leo với số tiền 140 triệu đồng và hàng tháng Bà vẫn đóng đủ tiền hàng tháng cho bà Đ là 10 triệu đồng. Mỗi lần hốt biêu chỉ có 2-3 con tham gia hốt hiêu do cái thông báo những người khác không có nhu cầu hốt biêu. Bà đóng từ tháng đầu tiên đến tháng thứ 10 bà Đ có hẹn trả cho Bà nhưng bà Đ thông báo bể biêu và bỏ đi đến bây giờ chưa trả lại cho Bà số tiền 280 triệu đồng (gồm 140 triệu đồng tiền biêu đưa cho hàng tháng và 140 triệu đồng biêu leo).

Bà Nguyễn Thị Hoàng A có yêu cầu độc lập trong vụ án, cụ thể bà Anh yêu cầu bà Trần Quỳnh Đ trả lại số tiền biêu còn nợ là 280 triệu đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm bà A xin rút toàn bộ yêu cầu độc lập để đề nghị cơ quan điều tra xử lý.

+ Bà Tạ Thị Thanh H trình bày: Bà có quan hệ bạn bè với bà Đ, ngày 10/11/2010 âm lịch bà Đ có mời tham gia dây biêu do bà Đ làm cái nhưng Bà không tham gia, do đó Bà không liên quan gì đến dây biêu này. Bà H cam đoan lời khai của mình là đúng và chịu trách nhiệm về lời khai của mình.

+ Ông Lê Văn T và bà Phùng Thị Vĩnh P trình bày: Vợ chồng Ông là chủ sở hữu nhà và đất tại thửa đất có số tờ KT, BI-65 diện tích 90m2 tại địa chỉ 124 đường N, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng, đã được Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/7/2004. Do nhà Ông bị mất chìa khóa và bị mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Hai vợ chồng Ông không biết và không có mối quan hệ gì với bà Đ và bà T và không đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thế chấp, cầm cố cho bất cứ ai. Đến khi Tòa án triệu tập đến thông báo vợ chồng Ông mới biết mình bị mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, ông T và bà P yêu cầu bà Trần Thị T là người đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trả lại giấy chứng nhận trên cho Ông, Bà.

+ Bà Hoàng Thái N trình bày: Khoảng năm 2011, bà có biết bà Trần Quỳnh Đ và lúc đó bà Đ có gặp nói chuyện và mượn tiền của Bà số tiền 550.000.000đ để đáo hạn ngân hàng trong vòng 05 ngày. Lúc đó Bà không có đủ tiền nên nói em gái Bà là Hoàng Thị Thái H cho bà Đ mượn 550.000.000đ để đáo hạn ngân hàng, bà Đ có đưa hồ sơ giải tỏa lô đất tái định cư đường 5,5m có mặt sau tiếp giáp với đường quy hoạch nội bộ dự án Khu dân cư phía nam Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng thành phố Đà Nẵng tên của bà Đ cho bà H sau 05 ngày sẽ trả đủ số tiền trên. Quá 05 ngày không thấy bà Đ trả tiền nên bà H gọi cho bà Trần Thị T qua để mua lô đất đường 5,5m nói trên và đồng thời bà Đ cũng đồng ý bán lô đất cho bà T qua hình thức công chứng ủy quyền tại Phòng công chứng số 02 để lấy số tiền 550.000.000đ trả cho bà H mà bà Đ đã mượn. Tại phòng công chứng số 02 bà T đã đưa số tiền nói trên cho bà H.

- Ông Phạm Thanh N trình bày: Năm 2008, ông có làm mất 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất Cl-33 Lô C1-33 Khúc Hạo, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, Đà Nẵng. Ông có làm đơn báo mất trên phương tiện thông tin đại chúng và được Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ông vào năm 2009. Ông cam kết không cầm cố thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho bất cứ ai. Ông không hề biết bà T và bà Đ. Hiện nay Ông đã được làm lại sổ nên không có yêu cầu gì đối với việc khởi kiện của các bên trong vụ án.

- Bà Hồ Minh N trình bày: Năm 2010, bà Trần Quỳnh Đ có làm chủ 01 dây biêu gồm 14 chân biêu, mỗi chân biêu 10 triệu đồng/tháng, Bà có tham gia 1 chân biêu. Những người chơi trong dây biêu bao gồm: bà Đ 02 chân biêu, bà T 03 chân biêu, bà Hồ Minh N 01 chân biêu, Minh A 01 chân biêu, bà H 01 chân biêu, bà H 01 chân biêu, bà Hà P 01 chân biêu, bà T 01 chân biêu, bà L 01 chân biêu. Mỗi lần hốt biêu chỉ có 2-3 người tham gia hốt hiêu do cái thông báo những người khác không có nhu cầu hốt biêu. Bà là người hốt biêu thứ 10 và chịu 02 phần lãi mỗi phần là 3,5 triệu đồng tổng cộng là 7 triệu đồng và bà Đ đã chồng đủ biêu cho bà là 123.000.000 đồng (trừ tiền lời khoảng 7.000.000 đ). Nay bà không có yêu cầu gì với số tiền biêu trên do đã nhận đủ tiền và không liên quan gì đối với việc khởi kiện của các bên trong vụ án.

- Bà Võ Thị Kim H trình bày: Bà có quan hệ bạn bè với bà Đ. Ngày 10/11/2010 âm lịch, bà Đ có mời Bà tham gia dây biêu do bà Đ làm cái nhưng Bà không tham gia. Do đó, Bà không liên quan gì đến dây biêu này và không liên quan gì đến việc khởi kiện của các bên trong vụ án.

- Bà Nguyễn Thị E trình bày: Bà có quan hệ bạn bè với bà Đ. Ngày 10/11/2010 âm lịch, bà Đ có mời Bà tham gia dây biêu do bà Đ làm cái nhưng Bà không tham gia, do đó Bà không liên quan gì đến dây biêu này, không liên quan đến việc khởi kiện của các bên trong vụ án.

- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2017/DS-ST ngày 25/9/2017, Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

n cứ khoản 1 điều 558 BLDS, Điều 106 luật đất đai; điều 471, 477, 479 Bộ luật dân sự;

n cứ Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận đơn khởi kiện v/v đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền giữa bà Trần Quỳnh Đ với bà Trần Thị T.

Tun xử: chấm dứt Hợp đồng ủy quyền số 13871 do Phòng Công chứng số 2, TP Đà Nẵng lập ngày 28/10/2011 giữa bà Trần Quỳnh Đ và bà Trần Thị T.

Buộc bà Trần Thị T trả lại cho bà Trần Quỳnh Đ Thông báo số 1674 của Công ty Xây lắp và Kinh doanh nhà Đà Nẵng cấp ngày 30/5/2011. Bà Trần Quỳnh Đ được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đối với nhà và đất theo Thông báo số 1674 của Công ty Xây lắp và Kinh doanh nhà Đà Nẵng.

2. Chấp nhận 1 phần yêu cầu phản tố của bà Trần Thị T:

Buộc Đ phải trả cho T số tiền 600.000.000đ ngay sau khi án có hiệu lực.

c một phần yêu cầu phản tố của bà Trần Thị T về việc buộc bà Trần Quỳnh Đ trả số tiền 550.000.000đ.

3. Đình chỉ yêu cầu trả tiền Biêu của bà Trần Thị T đối với bà Trần Quỳnh Đ đối với số tiền biêu 504.000.000đ.

4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Phùng Thị Vĩnh P và ông Lê Văn T. Buộc bà Trần Thị T trả lại cho bà P, ông Thông 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất có số tờ KT, BI-65 diện tích 90m2 do UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/7/2004 ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

5. Đình chỉ yêu cầu trả tiền biêu của bà Minh A đối với bà Trần Quỳnh Đ đối với số tiền biêu 280.000.000đ.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất chậm thi hành án, quyền kháng cáo, quyền, nghĩa vụ thi hành án.

Ngày 05/10/2017, bị đơn bà Trần Thị T kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bác yêu cầu khởi kiện của bà Trần Quỳnh Đ, chấp nhận yêu cầu phản tố của bà T.

Ngày 09/10/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng có kháng nghị số 02/QĐKNPT-VKS-DS, kháng nghị một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2017/DS-ST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân quận S, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà T, buộc bà Đ trả cho bà T tổng số tiền 1.150.000.000 đồng và buộc bà Đ phải chịu án phí đối với yêu cầu phản tố của bà T theo quy định của pháp luật.

- Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 32/2018/DS-PT ngày 10/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:

Căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS năm 2015;

Căn cứ các Điều 127, 128, 137, 471, 474, 477 Bộ luật dân sự 2005;

n cứ khoản 5 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng, một phần kháng cáo của bà Trần Thị T, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số:

46/2017/DSST ngày 25 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng. Xử:

1. Tuyên Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HĐGD do Phòng Công chứng số 2 TP Đà Nẵng lập ngày 28/10/2011 giữa bà Trần Quỳnh Đ và bà Trần Thị T bị vô hiệu.

Buộc bà Trần Thị T phải trả lại cho bà Trần Quỳnh Đ bản chính Thông báo số 1674 của Công ty Xây lắp và Kinh doanh Nhà Đà Nẵng cấp ngày 30/5/2011.

Bà Trần Quỳnh Đ được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục đối với nhà và đất theo Thông báo số 1674 của Công ty Xây lắp và Kinh doanh Nhà Đà Nẵng.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị T:

Buộc bà Trần Quỳnh Đ phải trả cho bà T số tiền (600.000.000đ + 550.000.000đ) = 1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm năm mươi triệu đồng).

3. Đình chỉ yêu cầu trả tiền Biêu của bà Trần Thị T đối với bà Trần Quỳnh Đ đối với số tiền biêu 504.000.000 đồng.

4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Phùng Thị Vĩnh P và ông Lê Văn T. Buộc bà Trần Thị T trả lại cho bà P, ông T bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất có số tờ bản đồ KT, số thửa BI-65 diện tích 90m2 tại phường B, quận N, thành Phố Đà Nẵng, do UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/7/2004.

5. Đình chỉ yêu cầu trả tiền biêu của bà Nguyễn Thị Hoàng A đối với bà Trần Quỳnh Đ đối với số tiền biêu 280.000.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất chậm thi hành án, quyền, nghĩa vụ thi hành án.

- Ngày 16/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ra Thông báo về việc không kháng nghị giám đốc thẩm số 340/TB-VKS-DS ngày 16/10/2019, trả lời cho bà Trần Thị T biết là không có cơ sở kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo đề nghị của bà Trần Thị T.

- Ngày 22/9/2022, bà Trần Thị T có đơn khiếu nại Thông báo về việc không kháng nghị giám đốc thẩm nêu trên gửi Viện trưởng Viện kiểm sát dân cấp cao tại Đà Nẵng.

- Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/QĐ-VKS-DS ngày 05/01/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Sửa một phần Bản án dân sự phúc thẩm số 32/2018/DS-PT ngày 10/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên Hợp đồng ủy quyền số 13871 lập ngày 28/10/2011 giữa bà Trần Quỳnh Đ và bà Trần Thị T vô hiệu, công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đ với bà T có hiệu lực pháp luật, bà T được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục nhận đất tái định cư và nhận số tiền bồi thường nhà đất còn lại 36.964.442 đồng và tính lại án phí cho phù hợp.

- Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bản án phúc thẩm nhận định: Ngoài việc bà Trần Quỳnh Đ vay của bà Trần Thị T 600.000.000 đồng, bà Đ còn chuyển nhượng lô đất tái định cư cho bà T với giá 550.000.000 đồng, nhưng do hồ sơ giải tỏa mới chỉ có thông báo số 1674 thể hiện địa chỉ lô đất “Lô đất hộ chính đường 5,5m có mặt sau tiếp giáp đường quy hoạch nội bộ dự án khu dân cư phía Nam Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, thành phố Đà Nẵng” chưa được bố trí trên thực tế về số lô, số thửa cụ thể nên các bên không thể lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được; do vậy hai bên mới thực hiện việc chuyển nhượng dưới hình thức Hợp đồng ủy quyền. Nhận định này của bản án phúc thẩm phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tuy nhiên, Bản án phúc thẩm tuyên Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC- SCC/HĐGD do Phòng Công chứng số 2 thành phố Đà Nẵng lập ngày 28/10/2011 giữa bà Trần Quỳnh Đ và bà Trần Thị T vô hiệu và buộc bà Đ trả lại cho bà T 550.000.000 đồng là số tiền đã giao cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất (ngoài số tiền vay 600.000.000 đồng) là gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà T; vì như đã phân tích trên, Hợp đồng ủy quyền số 13871 là căn cứ và cơ sở để bà T thực hiện các công việc sau:

“- Được quyền nhận toàn bộ số tiền đền bù và hỗ trợ liên quan đến lô đất nêu trên.

- Đăng ký nhận đất tái định cư, đại diện ký biên bản giao nhận đất thực tế, ký hợp đồng, phụ lục hợp đồng nhận đất; Liên hệ xin giấy phép xây dựng nhà;

- Thay mặt nộp tiền đất, đại diện ký cam kết về việc chuyển đổi tên nhận quyền sử dụng lô đất trên tại cơ quan có thẩm quyền.

- Liên hệ xin cấp và nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Đồng thời, buộc các bên phải thực hiện đầy đủ các thủ tục về chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật sau khi bà T ký nhận biên bản giao nhận đất trên thực địa.

Do đó, có căn cứ chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/QĐ- VKS-DS ngày 05/01/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát dân cấp cao tại Đà Nẵng.

[2] Về án phí: Do sửa bản án phúc thẩm, nên án phí dân sự được quyết định lại cho phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337; khoản 5 Điều 343, Điều 347 và Điều 349 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/QĐ-VKS-DS ngày 05/01/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

2. Sửa một phần Bản án dân sự phúc thẩm số 32/2018/DS-PT ngày 10/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng;

Tuyên xử:

- Giữ nguyên Hợp đồng ủy quyền số 13871 TP/CC-SCC/HĐGD do Phòng Công chứng số 2 thành phố Đà Nẵng lập ngày 28/10/2011 giữa bà Trần Quỳnh Đ và bà Trần Thị T. Buộc bà Trần Quỳnh Đ tiếp tục thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị T trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bà T ký nhận biên bản giao nhận đất trên thực địa, nếu quá thời hạn trên mà bà Đ không thực hiện thì bà T được quyền trực tiếp thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

- Buộc bà Trần Quỳnh Đ phải trả cho bà Trần Thị T số tiền 600.000.000đ.

- Đình chỉ yêu cầu trả tiền Biêu của bà Trần Thị T đối với bà Trần Quỳnh Đ đối với số tiền biêu 504.000.000 đồng.

- Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Phùng Thị Vĩnh P và ông Lê Văn T. Buộc bà Trần Thị T trả lại cho bà P, ông T bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất có số tờ bản đồ KT, số thửa BI-65 diện tích 90m2 tại phường B, quận S, thành Phố Đà Nẵng, do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/7/2004.

- Đình chỉ yêu cầu trả tiền biêu của bà Nguyễn Thị Hoàng A đối với bà Trần Quỳnh Đ đối với số tiền biêu 280.000.000 đồng.

3. Về án phí:

3.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Trần Quỳnh Đ phải chịu 28.000.000 đồng án phí có giá ngạch và 300.000 đồng án phí không có giá ngạch. Tổng cộng án phí phải chịu là 28.300.000 đồng; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng theo Biên lai thu số 0001197 ngày 15/8/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng. Bà Trần Quỳnh Đ tiếp tục phải nộp số tiền 28.100.000 đồng.

- Hoàn trả cho bà Trần Thị T số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 30.810.000 đồng theo Biên lai thu số 0001487 ngày 16/01/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

- Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Hoàng A số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 7.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0001799 ngày 03/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

- Hoàn trả cho bà Phùng Thị Vĩnh P và ông Lê Văn T số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0001792 ngày 29/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

3.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: bà Trần Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Trần Thị T số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0001962 ngày 10/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

4. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi trên số tiền chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Quyết định GĐT về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền số 07/2023/DS-GĐT

Số hiệu:07/2023/DS-GĐT
Cấp xét xử:Giám đốc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về