Bản về tội trộm cắp tài sản án số 90/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 90/2019/HS-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 97/2019/HSST ngày 30 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/HSST-QĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Lê Văn L; Sinh ngày: 01/01/1974 tại: M; Địa chỉ thường trú: Ấp K, xã Q, huyện Đ, tỉnh M; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn N (chết) và Võ Thị U; Có vợ và 01 con sinh năm 1999; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2019 (có mặt).

- Bị hại:

Ông Lê Thái V, sinh năm: 1992 Địa chỉ: 207/19/5B đường N, khu phố 5, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đào Văn T, sinh năm: 1990

Địa chỉ: 86 đường C, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm: 1978

Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện L, Thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 02/6/2019, Lê Văn L đi đến phòng trọ số 5 nhà số 207/19/5B đường N, khu phố 5, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh để rủ ông Lê Thái V nhậu. Khi đến nơi, L thấy ông V đang nằm ngủ dưới nền nhà gần cửa phòng trọ, bên cạnh để một chiếc điện thoại di dộng hiệu Samsung A9 màu xanh. L quan sát xung quanh không thấy người qua lại, không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại. L đến gần ông V, cúi thấp người dùng tay phải lấy trộm điện thoại, giấu trước bụng rồi bỏ đi. L mang điện thoại bán cho ông Đào Văn T chủ tiệm cầm đồ H được số tiền 3.000.000 đồng. Ông V kiểm tra camera phát hiện L là người chiếm đoạt điện thoại nên trình báo đến Công an Quận 9 xử lý. Đến ngày 03/6/2019, Công an Quận 9 bắt giữ Lê Văn L, thu giữ số tiền 650.000 đồng.

Ông Đào Văn T khi mua điện thoại di động do L đem bán không biết là tài sản do L trộm cắp mà có. Sau đó, ông T đã giao nộp lại diện thoại di động cho Công an Quận 9.

Sau khi vụ việc xảy ra, vợ bị cáo là bà Nguyễn Thị V đã thoả thuận bồi thường thiệt hại cho ông T số tiền 2.350.000 đồng. Ông T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại và cũng không yêu cầu nhận lại số tiền 650.000 đồng do Công an Quận 9 đang tạm giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 111-2019/KL-ĐGTS ngày 21/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A9 màu xanh, số Imel 1: 359933093499581/01; số Imel 2: 359933093499579/01, có giá trị còn lại là 3.800.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 29/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn L đã trình bày lại toàn bộ nội dung vụ án và thừa nhận đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại di động hiệu Samsung A9 màu xanh của ông Lê Thái V vào ngày 02/6/2019 tại phòng trọ số 5 nhà số 207/19/5B đường N, khu phố 5, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, bị cáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và tỏ thái độ ăn năn hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại là ông Lê Thái V đã trình bày lại nội dung vụ án, xác nhận đã nhận lại điện thoại di dộng hiệu Samsung A9 và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Văn L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, xác định hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung bản cáo trạng. Đồng thời, Đại diện Viện kiểm sát cũng đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định pháp luật xử phạt bị cáo Lê Văn L mức án từ 06 đến 09 tháng tù; tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền đang tạm giữ 650.000 đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định, bị cáo Lê Văn L đã thực hiện hành vi lén lúc chiếm đoạt một điện thoại di động hiệu Samsung A9 màu xanh của ông Lê Thái V vào ngày 02/6/2019 tại phòng trọ số 5 nhà số 207/19/5B đường N, khu phố 5, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, bị cáo mang tài sản đi bán và bị phát hiện, bị bắt giữ. Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có trị giá là 3.800.000đ (ba triệu tám trăm ngàn đồng). Do đó, hành vi của bị cáo Lê Văn L thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét ý kiến của đại diện viện kiểm sát và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự công cộng nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét áp dụng các quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Đối với ông Đào Văn T đã có hành vi mua điện thoại di động Samsung A9 màu xanh của ông Lê Thái V do bị cáo L đem bán. Tuy nhiên, khi mua ông T không biết đây là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 không xử lý vi phạm đối với ông T là có căn cứ.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là ông Lê Thái V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì khác nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Gia đình bị cáo đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho ông Đào Văn T số tiền 2.350.000 đồng. Nay ông T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì khác nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về tang vật chứng của vụ án:

Số tiền 650.000 đồng do Công an Quận 9 đang tạm giữ là tiền của bị cáo do phạm tội mà có nên tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1.1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1.2. Xử phạt: Lê Văn L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/6/2019.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 650.000đ (sáu trăm năm mươi ngàn đồng) là tiền do bị cáo Lê Văn L phạm tội mà có.

(Theo Phiếu thu số 199 ngày 11/6/2019 của Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh)

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Văn L phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản về tội trộm cắp tài sản án số 90/2019/HS-ST

Số hiệu:90/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về