Bản về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý án số 37/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử công khai trực tuyến tại điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh và Toà án nhân dân thị xã Quế Võ, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2023/TLST-HS ngày 01/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2023/QĐXXST-HS ngày 11/12/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Phương N, sinh năm 1977;

HKTT: Tổ 6, khu C, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tài C và bà Đặng Thị H; gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: 01 (Quyết định số 129 ngày 06/5/2022 của Công an thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Phương N số tiền 10.500.000 đồng về các hành vi “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” và “Mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiễn giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác”. Bị cáo chưa chấp hành tiền phạt); nhân thân: Ngày 26/9/2014, Nguyễn Phương N bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 197 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Ngày 20/5/2016, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh ra Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Nguyễn Phương N; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/9/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh - có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

1. Ông Nguyễn Kim S - Cán bộ phụ trách tin học thuộc TAND thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

2. Cán bộ phụ trách tin học thuộc Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 05/9/2023, Nguyễn Phương N rủ Đỗ Văn V2, sinh năm 1992, trú tại thôn Kiệt Đoài, phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương và một số người khác đến quán karaoke Victory để hát. Khi đến quán, N gặp Hoàng Hữu Ch, sinh năm 1984, trú tại thôn Nà Bản, xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang (là nhân viên của quán hát) đặt thuê phòng để hát thì được C bố trí lên phòng V3. Khi lên phòng hát V3, N gọi thêm Trần Thị Hoài V1, sinh năm 2000, trú tại thôn Thanh Đình, xã Thanh Đình Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; Vi Thị H, sinh năm 1998, trú tại thôn Mưởng Phủ, xã Thông Thụ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An và Bạc Thị Th, sinh năm 2006, trú tại Bản Xóm, xã Mường Đăng, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên là nhân viên phục vụ hát đến bấm bài và hát cùng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, một số người bạn của N đi về trước, còn lại N, V2, V1, H và Th ở lại. N nảy sinh ý định mua ma túy Ke (ma túy Ketamine) để sử dụng. N sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax lắp sim số 0788.016.X, qua ứng dụng Zalo liên lạc với một người thanh niên lưu tên là “Choăt” (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) hỏi mua 500.000 đồng ma túy Ke, Choăt đồng ý. Choăt trực tiếp mang ma túy “Ke” đựng trong một túi nilon màu trắng đến cửa quán Victory giao cho N. Sau khi mua được ma túy, N đến quầy lễ tân hỏi mượn C đĩa sứ nhưng C không đồng ý. N thấy ở quầy lễ tân có chiếc đĩa sứ màu trắng, tự lấy rồi mang lên phòng hát V3 rồi đổ ma túy “Ke” ra đĩa, lấy thẻ nhựa trong phòng xào ma túy, lấy tờ giấy quấn thành ống hút và sử dụng ma túy. Sau khi xào ma túy và tự sử dụng ma túy, N cầm đĩa ma túy đã xào mời V1, Th sử dụng ma túy cùng thì V1 đồng ý sử dụng ma túy còn Th không sử dụng ma túy. Sau khi V1 sử dụng ma túy xong, N để đĩa ma túy lên trên mặt loa trong phòng, mục đích cho mọi người cùng sử dụng. Đến 23 giờ 40 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, thu giữ vật chứng tại mặt loa trong phòng có 01 ống hút và 01 đĩa sứ màu trắng, trên mặt đĩa có bám dính chất tinh thể màu trắng. Lực lượng Công an tiến hành niêm phong các vật chứng trên vào trong túi nilon và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định, trước sự chứng kiến của Đỗ Văn V2, Trần Thị Hoài V1, Vi Thị H, Bạc Thị Th, và Hoàng Hữu C. Ngoài ra, lực lượng Công an còn tạm giữ của N 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax lắp sim số 0788.016.X. Tiến hành kiểm tra nước tiểu, xác định N, V1 dương tính với chất ma túy. V2, H và Th âm tính với chất ma túy.

Trên cơ sở quyết định trưng cầu giám định chất ma túy của Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an tỉnh Bắc Ninh, tại Bản Kết luận giám định số 1844 ngày 08/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong túi niêm phong gửi giám định có khối lượng 0,0105 gam; Là ma túy; Loại ma túy Ketamine.

Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax, lắp sim số 0788.016.X của N, trong ứng dụng Zalo có nhiều liên lạc đến tài khoản N lưu là “Choăt”, theo N khai là người bán ma túy cho N. Tra cứu và xác minh chủ tài khoản tên “Choăt” tại Công ty cổ phần VNG, kết quả không xác định được thông tin chủ tài khoản, số điện thoại liên kết mở tài khoản trên. N khai không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể và có mối quan hệ với ai nên cơ quan điều tra chưa làm rõ được. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Đối với Trần Thị Hoài V1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, qua xác minh tại xã Thanh Đình Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh không có người nào có lai lịch như trên, hiên Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Đối với Đỗ Văn V2, Vi Thị H và Bạc Thị Th, cả ba cùng không sử dụng trái phép chất ma túy, không biết nguồn gốc chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Đối với Hoàng Hữu C không biết việc N thuê phòng và lấy đĩa sứ để sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với Nguyễn Thị Tiến là chủ quán karaoke Victory, Tiến không biết việc N thuê phòng để sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 20/11/2023, Công an tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tổng số tiền 52.500.000 đồng về các hành vi “Kinh doanh dịch vụ karaoke không có giấy phép quy định”, “Hoạt động kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự khi chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự” và “Người đại diện theo pháp luật để xảy ra hoạt động tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy trong khu vực mình quản lý”.

Quá trình điều tra, truy tố, Nguyễn Phương N thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

Với nội dung trên, Cáo trạng số: 182/CT-VKSQV ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Phương N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 255 BLHS.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Phương N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã nêu và thừa nhận, cáo trạng của VKSND tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Phương N đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phương N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phương N từ 26 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/9/2023. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng, tịch thu tiêu huỷ 01 túi niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định và 01 sim điện thoại. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 11 promax màu vàng đã qua sử dụng. Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị về các vấn đề khác và án phí theo quy định.

Bị cáo Nguyễn Phương N nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra, viện kiểm sát, kiểm sát viên đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật, không bị khiếu nại nên xác định hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, phủ hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định, cùng lời khai của người làm chứng, người liên quan và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 21 giờ ngày 05/9/2023, tại phòng V3 quán karaoke Victory ở khu phố Giang Liễu, phường Phương Liễu, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Nguyễn Phương N đã có hành vi thuê phòng, mua ma tuý Ketamine, tự lấy đĩa, lấy thẻ nhựa xào ma tuý để sử dụng và mời Trần Hoài V1 và Bạc thị Th cùng sử dụng nhưng chỉ có V1 sử dụng. Số lượng ma tuý được thu giữ là 0,0105gam ma tuý, loại Ketamine. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Phương N đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” được quy định tại khoản 1 Điều 255 BLHS đúng như Cáo trạng của VKSND tỉnh Bắc Ninh đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy. Ma túy còn là nguồn gốc dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại của chất ma túy, biết được việc mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên cần phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu và có 01 tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn, hối hận về hành vi của mình. Mẹ bị cáo là bà Đặng Thị H là thanh niên xung phong trong cuộc kháng chiếc chống Mỹ cứu nước và được tặng thương Huy chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 BLHS. Do vậy, khi lượng hình cũng cần xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 điện thoại Iphone 11 promax lắp sim số 0788.016.X là điện thoại và sim điện thoại bị cáo dùng để liên lạc ma tuý nên cần tịch thu, sung ngân sách nhà nước. Đối với số ma tuý còn lại sau giám định, đựng trong túi niêm phong cần tịch thu, tiêu huỷ.

[7] Đối với những người liên quan trong vụ án như đối tượng tên “Choăt”, Trần Thị Hoài V1, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa làm rõ được nên hiện đang tiếp tục xác minh để xử lý sau là phù hợp. Đối với Đỗ Văn V2, Vi Thị H, Bạc Thị Th, Hoàng Hữu C không có hành vi sử dụng ma tuý, không tham gia vào việc tổ chức sử dụng ma tuý của bị cáo N nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng. Đối với Nguyễn Thị Tiến là chủ quán Karaoke Victory không biết hành vi của bị cáo N nhưng có hành vi “Kinh doanh dịch vụ karaoke không có giấy phép quy định”, “Hoạt động kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự khi chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự” và “Người đại diện theo pháp luật để xảy ra hoạt động tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy trong khu vực mình quản lý” nên Công an tỉnh Bắc Ninh xử phạt vi phạm hành chính với hành vi trên là đúng quy định.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phương N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 136, Điều 106 và Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Phương N 26 (hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 06/9/2023. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm thi hành án.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 túi niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định niêm phong số 2111149 còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký giáp lai của các thành phần tham gia niêm phong cùng dấu tròn đỏ kèm theo KLGĐ số 1844 ngày 8/9/2023 của Phòng KTHS – Công an tỉnh Bắc Ninh.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 11 promax màu vàng đã qua sử dụng kèm theo 01 sim điện thoại có số là 0788.016.X.

Toàn bộ vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 29/11/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phương N phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý án số 37/2023/HS-ST

Số hiệu:37/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về