Bản về tội cưỡng đoạt tài sản số 101/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 101/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 96/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Quang V, sinh ngày 23 tháng 02 năm 1993 tại: Huyện T, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X, thị trấn G, huyện T, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn X, thị trấn G, huyện T, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn V1 và bà Đoàn Thị M; có vợ Đoàn Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13-8-2020, chuyển tạm giam ngày 22-8-2020, đến ngày 04-9-2020 được hủy bỏ Quyết định tạm giam và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 04-9-2020. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh từ ngày 23-10-2020 đến ngày 26-01-2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đoàn Quang V: Chị Đoàn Thị T, sinh năm 1995 (vợ bị cáo Đoàn Quang V); nơi cư trú: Thôn X, thị trấn G, huyện T, tỉnh Nam Định. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa: Bà Trần Thị Thắm - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Bùi Đông A, sinh năm 1989; nơi cư trú: Số 764 đường V, xã Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Chị Phạm Thị N, sinh năm 1990; nơi cư trú: Số 764 đường V, xã Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 4/2020 anh Bùi Đông A có vay nợ số tiền 13.250.000 đồng của Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Đội 6, xóm T, xã Z, huyện H2, tỉnh Nam Định. Anh Đông A đã trả được cho H số tiền 5.250.000 đồng, còn nợ lại 8.000.000 đồng. Đến ngày 08-8-2020 H cùng Đoàn Quang V đến nhà anh Đông A để đòi nợ. Tại đây, anh Đông A hứa hôm sau sẽ trả cho H số tiền 6.000.000 đồng, còn nợ lại 2.000.000 đồng thì H và V đồng ý. Ngày 11-8-2020 V đến nhà anh Đông A để lấy số tiền trả nợ cho H như đã hẹn nhưng anh Đông A chỉ đưa cho V số tiền 4.000.000 đồng. V cầm tiền về và thông báo cho H biết. H không đồng ý và hẹn sáng 12-8-2020 sẽ lên thành phố N rồi cùng với V đi đòi nợ.

Khoảng 07 giờ ngày 12-8-2020 H gọi điện thoại cho bạn là Phạm Xuân Q, sinh năm 1994; nơi cư trú: Xóm 3, thôn Phú Văn Nam, xã Hải Châu, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định rủ sang nhà mình rồi cùng lên thành phố Nam Định để đi đòi nợ. Tại đây, H bàn bạc với Q sẽ đi đến nhà V rồi cả ba người sẽ đến nhà anh Đông A để đòi nợ. Nếu anh Đông A không trả tiền thì H sẽ đe dọa gia đình anh Đông A để lấy một số máy hàn nhằm trừ vào số tiền nợ của anh Đông A và nhờ Q chở số tài sản chiếm đoạt được về nhà giúp. Trường hợp anh Đông A phản kháng và đánh lại thì Q sẽ vào giúp sức cho H đánh anh Đông A và lấy tài sản. Q đồng ý. Trước khi đi, H chuẩn bị sẵn 01 con dao nhọn, dạng dao gọt hoa quả dài khoảng 22 cm, lưỡi bằng kim loại sáng màu, chuôi dao bằng gỗ để trong cốp xe máy biển kiểm soát 18D1-109.20. Q đứng bên cạnh nên biết H mang theo dao. Sau đó H điều khiển xe máy Honda biển kiểm soát 18D1-109.20, Q điều khiển xe máy biển kiểm soát 18H1-525.24 cùng đi đến xưởng cơ khí của gia đình V tại địa chỉ: Số 835 đường V, xã Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Tại đây, H bàn bạc, thống nhất với V và Q khi đến nhà anh Đông A đòi nợ, nếu anh Đông A không có tiền trả thì sẽ lấy các máy hàn để trừ nợ. Trường hợp anh Đông A phản kháng thì Q và V sẽ giúp H cùng đánh anh Đông A để lấy tài sản. Q và V đồng ý. Sau đó H và Q điều khiển xe máy của mình, V điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Xmen Plus không có biển kiểm soát đi đến nhà anh Đông A. Đến nơi H, Q, V và anh Đông A ngồi tại bàn uống nước ngoài vỉa hè nhà anh Đông A nói chuyện. H yêu cầu anh Đông A trả nốt số nợ còn lại cho mình nhưng anh Đông A nói chưa có tiền trả. H không đồng ý, chửi bới và đe dọa: “Nếu hôm nay không có tiền trả thì một là mày đổ máu, hai là tao đổ máu” và bắt anh Đông A trả tiền Ny, nếu không trả thì H sẽ lấy máy hàn của anh Đông A để trừ nợ. Anh Đông A thấy nhóm H đi đông người và có thái độ hung hãn nên đã đi vào trong nhà. Anh Đông A không muốn cho H lấy máy hàn của nhà mình nên nói với H: “Nhà tôi đấy, ông vào mà lấy, có lấy ra được hay không thôi”, rồi anh Đông A đi vào trong phòng ngủ. Thấy vậy H liền ra xe máy, mở cốp lấy con dao đã chuẩn bị từ trước đút vào túi quần sau bên phải, để lộ phần lưỡi dao ra ngoài và đi vào nhà. Khi H vừa bước chân vào nhà thì chị Phạm Thị N (là vợ anh Đông A) nhìn thấy liền nói: “Sao anh lại mang dao vào trong nhà tôi”. H liền chỉ tay về phía chị N và chửi: “Mày im mồm, mày đừng có láo”. Chị N thấy vậy sợ hãi không dám làm gì nữa. H tiến vào trong giá để đồ phía bên trái nhà anh Đông A lấy 01 chiếc máy hàn nhãn hiệu Jasic, kích thước 40x25x15cm cùng dây phụ kiện và một chiếc máy hàn nhãn hiệu Fuka, kích thước 35x25x15cm cùng dây phụ kiện để lên xe máy của mình. H tiếp tục quay vào nhà lấy một chiếc máy hàn nhãn hiệu Bamboo, kích thước 40x25x15cm cùng dây phụ kiện để lên chỗ để chân xe máy điện của V. Sau đó cả ba cùng về xưởng cơ khí của gia đình V để cất giữ 03 chiếc máy hàn. Sau khi H mang tài sản đi, anh Đông A đã lên công an xã Nam Vân, thành phố Nam Định để trình báo sự việc.

Sau khi tiếp nhận vụ việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn H, Phạm Xuân Q và Đoàn Quang V. Đồng thời thu giữ 01 máy hàn nhãn hiệu Jasic, 01 máy hàn nhãn hiệu Fuka, 01 máy hàn nhãn hiệu Bamboo cùng các dây phụ kiện; 01 dao nhọn dạng dao gọt hoa quả, dài khoảng 22cm lưỡi bằng kim loại sáng màu, chuôi dao bằng gỗ; 01 xe máy biển kiểm soát 18D1-109.20 của Nguyễn Văn H, 01 xe máy biển kiểm soát 18H1-525.24 của Phạm Xuân Q và 01 xe máy điện Xmen Plus không có biển kiểm soát của Đoàn Quang V.

Tại bản kết luận định giá số 35/KL-HĐĐGTS ngày 17-8-2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định đã kết luận: 01 chiếc máy hàn cơ khí, nhãn hiệu Bamboo có trị giá 900.000 đồng; 01 chiếc máy hàn cơ khí, nhãn hiệu Jasic trị giá 600.000 đồng; 01 chiếc máy hàn cơ khí, nhãn hiệu Fuka có trị giá 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.000.000 đồng.

Sau khi định giá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trả lại 03 chiếc máy hàn cùng phụ kiện nói trên cho anh Bùi Đông A. Anh Đông A đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H, Phạm Xuân Q và Đoàn Quang V đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt 03 chiếc máy hàn cùng phụ kiện của anh Bùi Đông A của như trên.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định nhận thấy Đoàn Quang V có tiền sử điều trị bệnh tâm thần, biểu hiện tâm lý không bình thường nên đã trưng cầu Viện pháp y Tâm thần trung ương giám định khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội của Đoàn Quang V. Tại bản kết luận giám định số 378/KLGĐ ngày 06-10-2020 của Viện pháp y Tâm thần trung ương kết luận:

- Bị can Đoàn Quang V trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị bệnh rối loạn phân liệt cảm xúc loại hỗn hợp. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số F25.2.

- Tại thời điểm trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội bệnh ở giai đoạn thuyên giảm, bị can Đoàn Quang V bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

- Tại thời điểm giám định bệnh ở giai đoạn cấp tính, bị can Đoàn Quang V mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Sau khi nhận được kết luận giám định pháp y tâm thần, ngày 22-10-2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định ra quyết định tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Đoàn Quang V; đồng thời đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can Đoàn Quang V. Ngày 23-10-2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với Đoàn Quang V.

Đến ngày 13-01-2021 Viện pháp y Tâm thần trung ương có kết luận số 02/KLGĐSKTT-SBBCB kết luận: Hiện tại bệnh tâm thần của bệnh nhân Đoàn Quang V ở giai đoạn khỏi bệnh, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, không cần áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Ngày 26-01-2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định đã ra quyết định đình chỉ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với Đoàn Quang V. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự đối với bị can và quyết định phục hồi điều tra bị can đối với Đoàn Quang V.

Đối với Nguyễn Văn H và Phạm Xuân Q đã bị đưa ra truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 354/2020/HSST ngày 10- 12-2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn H và Phạm Xuân Q phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, xử phạt Nguyễn Văn H 01 năm 09 tháng tù và xử phạt Phạm Xuân Q 01 năm 06 tháng tù.

Bản cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 25-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Đoàn Quang V về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự.

Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Quang V đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Đoàn Quang V tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đoàn Quang V phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm q,s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đoàn Quang V từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách gấp đôi. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Buộc bị cáo Đoàn Quang V phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo là chị Đoàn Thị T trình bày: Bị cáo Đoàn Quang V mắc bệnh tâm thần, hiện vẫn đang tiếp tục phải điều trị; hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa của bị cáo là bà Trần Thị Thắm - Trợ giúp viên pháp lý trình bày: Hành vi của bị cáo Đoàn Quang V và các đồng phạm đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tuy nhiên bị cáo Đoàn Quang V được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo bị mắc bệnh rối loạn phân liệt cảm xúc loại hỗn hợp, bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; bị cáo là đồng phạm có vai trò không đáng kể; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, phải nuôi 02 con nhỏ, đồng thời bị cáo hiện vẫn còn đang phải tiếp tục theo dõi, điều trị bệnh tâm thần. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm q,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo Đoàn Quang V được hưởng án treo.

Bị cáo Đoàn Quang V nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Quang V, người đại diện hợp pháp và người bào chữa của bị cáo Đoàn Quang V, các bị hại là anh Bùi Đông A và chị Phạm Thị N không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Đoàn Quang V tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Lời khai của các bị hại; lời khai của người làm chứng; biên bản thu giữ vật chứng; kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS ngày 17-8-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 12-8- 2020, vì lý do muốn đòi nợ cho Nguyễn Văn H, nên bị cáo Đoàn Quang V đã cùng đi với Nguyễn Văn H và Phạm Xuân Q đến nhà anh Bùi Đông A, chị Phạm Thị N tại địa chỉ: Số nhà 764 đường V, xã Y, thành phố N, tỉnh Nam Định để chửi bới, đe dọa; sau đó đã cùng với các đồng phạm lấy đi của anh Bùi Đông A 01 chiếc máy hàn nhãn hiệu Jasic, 01 chiếc máy hàn nhãn hiệu Fuka và 01 chiếc máy hàn nhãn hiệu Bamboo cùng các dây phụ kiện, tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 2.000.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Đoàn Quang V là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội; bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi cưỡng đoạt tài sản của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; giá trị tài sản mà bị cáo cùng các đồng phạm đã đe dọa bị hại để chiếm đoạt là 2.000.000 đồng nên bị cáo Đoàn Quang V đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Đoàn Quang V đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; tại thời điểm phạm tội, bị cáo bị mắc bệnh rối loạn phân liệt cảm xúc loại hỗn hợp, bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; bị cáo là đồng phạm có vai trò không đáng kể, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản bị cáo cùng đồng phạm chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo hiện vẫn đang phải theo dõi, điều trị bệnh tâm thần nên bị cáo Đoàn Quang V được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i,q,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đoàn Quang V không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt:

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Đoàn Quang V là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Nam Định nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên do bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử chỉ phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố.

Xét thấy trước khi phạm tội bị cáo Đoàn Quang V có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo tại địa phương nên Hội đồng xét xử sẽ miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện đối với bị cáo và giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đoàn Quang V cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Đoàn Quang V phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Đoàn Quang V có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là anh Bùi Đông A và chị Phạm Thị N đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là 03 chiếc máy hàn cùng các dây phụ kiện và không có đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí:

Bị cáo Đoàn Quang V bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Quang V phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm i,q,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Quang V 01 năm 03 tháng tù (một năm ba tháng tù) nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm 06 tháng (hai năm sáu tháng) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 26-4-2021.

Bị cáo Đoàn Quang V có thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13-8-2020 đến ngày 04-9-2020.

Giao bị cáo Đoàn Quang V cho Ủy ban nhân dân thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đoàn Quang V cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Đoàn Quang V phải chấp hành hình phạt 01 năm 03 tháng tù (một năm ba tháng tù) đã cho hưởng án treo.

2. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đoàn Quang V phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Đoàn Quang V; người đại diện hợp pháp của bị cáo là chị Đoàn Thị T; người bào chữa là bà Trần Thị Thắm có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là anh Bùi Đông A và chị Phạm Thị N có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Đoàn Quang V có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

389
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản về tội cưỡng đoạt tài sản số 101/2021/HS-ST

Số hiệu:101/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về