Bản số về tội chống người thi hành công vụ số 22/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐP, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN SỐ 22/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐP, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST - HS ngày 08 tháng 4 năm 2022, đối với:

- Bị cáo: i Xuân N, sinh năm 1990 tại huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; nơi đăng ký thường trú và sinh sống: Cụm 1, xã TL, huyện ĐP Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân V và bà Bùi Thị D; vợ, con: Chưa có; danh bản, chỉ bản số 439 lập ngày 10/12/2021 tại Công an huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/12/2021, tạm giam từ ngày 10/12/2021 về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; hiện đang giam tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội; có mặt.

- Bị hại:

+ Anh Nguyễn Quý T, sinh năm 1988; trú quán: Cụm X, xã TL, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; có mặt;

+ Chị Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1990; Cụm X, xã TL, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt;

+ Anh Nguyễn Quý T, sinh năm 1996; trú quán: Cụm X, xã TL, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; có mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Lê Duy K, sinh năm 1990; trú quán: Cụm 1, xã TX, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội (Cảnh sát giao thông, Công an huyện ĐP); vắng mặt;

+ Anh Bùi Văn Đ, sinh năm 1994; trú quán: Thôn ViN, xã ĐX, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội (công an chính quy xã TL); vắng mặt.

+ Chị Bùi Thị T, sinh năm 1991; trú quán: Cụm 4, xã TL, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Đào Văn X, sinh năm 1990; trú quán: Cụm 3, xã TA, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Anh Vương Văn N, sinh năm 1993; trú quán: số 63, ngách 1A/56, Gò Mèo, thị trấn P, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1972; trú quán: Cụm X, xã TL, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Anh Phạm Văn K, sinh năm 1988; trú quán: Cụm 6, xã HH, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Vụ việc thứ nhất: Thực hiện Công văn số 604/CAĐP-TH ngày 24/5/2021 của Công an huyện ĐP, Thành phố Hà Nội về tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid - 19; Chương trình công tác của Công an xã TL năm 2021 về tuần tra bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn xã TL, huyện ĐP. Khoảng 23 giờ ngày 07/6/2021 tổ công tác của Công an xã TL gồm các anh: Đào Văn X, Vương Văn N (Công an chính quy) và anh Nguyễn Văn S (Công an viên bán chuyên trách) làm nhiệm vụ, phát hiện Bùi Xuân N đứng ở ven đường gần trụ sở UBND xã TL, bên cạnh có 01 chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng, không gắn biển kiểm soát có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác Công an xã TL yêu cầu Nghi đưa xe mô tô về trụ sở Công an xã TL để làm việc. Khi kiểm tra giấy tờ tùy thân, Nghi chỉ xuất trình chứng minh nhân dân mà không xuất trình được giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; tổ công tác yêu cầu Nghi mở cốp xe kiểm tra thì phát hiện trong cốp xe mô tô có 01 biển kiểm soát 29X3 - 360.67. Thấy vậy, Công an xã TL đề nghị đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện ĐP cử cán bộ đến hỗ trợ xác minh nguồn gốc của xe mô tô. Sau đó, anh Lê Duy K và anh Phạm Văn K (Công an đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện ĐP) được cử đến hỗ trợ. Khi bị lập biên bản vi phạm và tạm giữ xe, Bùi Xuân N không ký vào biên bản, còn chửi lại lực lượng Công an và nói “đấy là tài sản của tao, xe tao đang đi làm, tao lấy đi về” rồi Nghi đi ra sân UBND xã TL lấy xe mô tô trên để về thì anh Lê Duy K nói với lực lượng Công an xã TL giữ xe lại để xác minh nguồn gốc xe. Bùi Xuân N quay lại chửi anh Khánh đồng thời dùng 02 tay đẩy mạnh vào ngực anh Khánh để phản đối việc tạm giữ xe, khiến anh Khánh bị lùi lại phía sau. Lúc này, anh Bùi Văn Đ (công an chính quy xã TL) đang làm việc tuy không phải ca trực nhưng khi được đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (Trưởng công an xã TL) yêu cầu ra tăng cường cho tổ công tác để khống chế Nghi. Bị lực lượng Công an khống chế, Nghi giãy giụa người để chống lại rồi dùng chân đạp vào bụng anh Bùi Văn Đ làm anh Đạt ngã xuống sân, sau đó lực lượng Công an xã TL khống chế được Bùi Xuân N.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Lê Duy K và anh Bùi Văn Đ đều từ chối đi giám định thương tích nên không có căn cứ để xử lý.

- Vụ việc thứ hai: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 06/12/2021, Bùi Xuân N rủ bạn là Hà Huy Huân, sinh năm 1979 ở Cụm 1, xã TL, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội cùng anh Nguyễn Đăng Ngọc, sinh năm 1976 ở Cụm 6, xã TL, huyện Đan Phương, Thành phố Hà Nội (là chủ công trình xây nhà ở cho Nghi) đến nhà anh Nguyễn Quý T (là kiến trúc sư thiết kế nhà cho Nghi) để nói chuyện về việc phát sinh một số chi tiết trong bản thiết kế. Nghi cho rằng bản thiết kế của anh Trung không phù hợp với diện tích đất, gây thiệt hại về tài sản cho Nghi nên Nghi chửi anh Trung rồi ném bản thiết kế về phía anh Trung, dùng chân đạp anh Trung nhưng không trúng. Lúc này anh Huân vào can ngăn và kéo Nghi ra ngoài, khi ra ngoài cửa, Nghi tiếp tục chửi, Nghi nhặt 01 viên gạch (dài 20 cm, rộng 06cm, cao 05 cm) ở trước cửa nhà anh Trung ném vào cửa chính nhà anh Trung rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi. Do lo sợ nên anh Trung gọi điện thoại cho em trai là anh Nguyễn Quý T đến. Anh Thắng điều khiển xe mô tô Yamaha, biển kiểm soát 29X - 399.10 đến và dựng xe trước cửa nhà anh Trung. Lúc này Nghi đi mua 01 con dao bằng kim loại màu đen chiều dài 36cm, phần chuôi hình tròn dài 11 cm, phần lưỡi dao dài 25 cm, bản rộng 7,5cm ở chợ TL về để tháo dỡ cốt pha. Khi đi qua nhà anh Trung thì thấy anh Trung cùng vợ là chị Nguyễn Thị Ngọc C đang đứng trước cửa nhà nên Nghi tiếp tục vào nhà anh Trung. Thấy Nghi cầm theo 01 con dao nên anh Trung, chị Chi chạy vào nhà chốt cửa lại, Nghi chạy đến dùng tay phải cầm tay nắm cửa giật mạnh ra ngoài nhưng không mở được nên tiếp tục dùng tay phải giật cửa, còn tay trái cầm dao chém vào cánh cửa. Do không mở được cửa nên Nghi cầm 01 mũ bảo hiểm đang để trên xe mô tô của anh Thắng rồi dùng dao chém vào mũ bảo hiểm làm mũ bị vỡ. Nghi tiếp tục chửi, yêu cầu anh Trung ra ngoài và dùng tay nhiều lần giật cửa nhà anh Trung làm chốt khóa cửa bị hư hỏng, lúc này anh Trung cùng anh Thắng giữ cửa bên trong nên Nghi không mở được. Nghi dùng dao chém vỡ chuông bấm cửa, chém vỡ cửa kính nhà anh Trung rồi quay ra dùng dao chém vào biển kiểm soát, đèn pha trước và đồng hồ xe mô tô của anh Thắng, làm biển kiểm soát bị cong vênh, phần nhựa bảo vệ biển kiểm soát bị vỡ hỏng, đèn pha trước bị vỡ. Nghi tiếp tục dùng dao chém vào cửa khiến phần khung cửa sắt nhà anh Trung bị trầy xước sơn. Nghi nhặt 01 viên gạch dài 20 cm, rộng 06cm, cao 05 cm ném vào cửa sổ làm kính bị vỡ rồi dùng dao chặt đứt 01 cây hoa hồng, 02 cây hoa giấy anh Trung trồng trước cửa sổ. Sau đó lực lượng Công an xã TL đến yêu cầu Nghi về trụ sở làm việc.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐP đã yêu cầu định giá tài sản do Nghi làm hư hỏng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 80/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện ĐP, xác định: Chi phí khắc phục, thay thế bộ khóa cửa hiệu Yale; thay thế tấm kính cửa loại kính dán an toàn; thay thế nút bấm chông cửa; giá trị cây hoa hồng giống cổ Hải Phòng; giá trị cây hoa giấy tán cây cao khoảng 2m, đường kính gốc 4cm; giá trị cây hoa giấy tán cây cao 3m, đường kính thân gốc 6cm, cộng giá trị là 7.947.800 đồng. Giá trị mũ bảo hiểm, chi phí khắc phục sửa chữa thay thế các hư hỏng của xe ô tô nhãn hiệu Yamaha, giá trị 3.590.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 11.537.800 đồng (mười một triệu năm trăm ba mươi bảy nghìn, tám trăm đồng).

Tại Bản cáo trạng số 16/CT - VKS - ĐP ngày 21 tháng 3 năm 2022 Viện Kiểm sát nhân dân huyện ĐP, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Bùi Xuân N về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự và khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Xuân N thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại là anh Nguyễn Quý T và anh Nguyễn Quý T có ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nghi. Về dân sự: Không yêu cầu bị cáo Nghi bồi thường. Bộ khóa cửa, mũ bảo hiểm Công an đã thu giữ không còn giá trị sử dụng, hai anh tự nguyện không nhận lại, đề nghị Hội đồng xét xử tiêu hủy.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện ĐP thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Bùi Xuân N về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và tội “Chống người thi hành công vụ”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 178, khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 55 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Xuân N từ 08 tháng đến 12 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Tổng hợp, buộc bị cáo Bùi Xuân N phải chấp hành hình phạt chung của hai tội từ 14 tháng đến 21 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 07/12/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Bị hại và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không phải giải quyết.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ khóa nhãn hiệu Yale bằng kim loại, chiều dài khoảng 03 cm; 01 mũ bảo hiểm Royal; 02 viên gạch có kích thước 20 cm, rộng 06cm, cao 05 cm; 01 con dao bằng kim loại màu đen, chiều dài 36 cm, phần chuôi dao hình tròn dài 11 cm, phần lưỡi dao dài 25 cm, bản rộng phần lười dao 7,5cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐP, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện ĐP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Xuân N không có ý kiến, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Xuân N đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:

- Vụ việc thứ nhất: Khoảng 23 giờ ngày 07/6/2021 tổ công tác của Công an xã TL gồm các anh Đào Văn X, Vương Văn N và anh Nguyễn Văn S đi làm nhiệm phát hiện Bùi Xuân N đứng ở ven đường gần trụ sở UBND xã TL, bên cạnh có 01 chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng, không gắn biển kiểm soát, tổ công tác yêu cầu Nghi đưa xe mô tô về trụ sở Công an xã TL để làm việc. Kiểm tra giấy tờ tùy thân, Nghi chỉ xuất trình chứng minh nhân dân mà không xuất trình được giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; mở cốp xe kiểm tra thì phát hiện trong cốp xe mô tô có 01 biển kiểm soát số 29X3 - 360.67. Anh Lê Duy K và anh Phạm Văn K (Công an thuộc đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện ĐP) được cử đến hỗ trợ, lập biên bản vi phạm và tạm giữ xe, Nghi không ký vào biên bản, còn chửi lại lực lượng Công an và nói “đấy là tài sản của tao, xe tao đang đi làm, tao lấy đi về” rồi Nghi đi ra sân UBND xã TL lấy xe mô tô trên để về thì anh Lê Duy K nói với lực lượng Công an xã TL giữ xe lại để xác minh nguồn gốc xe. Bùi Xuân N quay lại chửi anh Khánh đồng thời dùng 02 tay đẩy mạnh vào ngực anh Khánh để phản đối việc tạm giữ xe, khiến anh Khánh bị lùi lại phía sau. Lúc này, anh Bùi Văn Đ (công an chính quy xã TL) khống chế Nghi, Nghi giãy giụa người để chống lại rồi dùng chân đạp vào bụng anh Đạt làm anh Đạt ngã xuống sân, sau đó lực lượng Công an xã TL khống chế được Bùi Xuân N.

Hành vi Bùi Xuân N đưa xe mô tô (không gắn biển kiểm soát) ra ngoài đường, không mang theo giấy đăng ký xe mô tô. Khi bị Công an lập biên bản về vi phạm tham gia giao thông, Nghi không chấp hành mà còn chửi lại Công an, vụ việc chưa được giải quyết nhưng Nghi tự lấy xe mô tô để đi về, lực lượng Công an vào khống chế không cho Nghi đưa xe về, Nghi đã chửi, dùng tay đẩy vào Ngực anh Lê Duy K, dùng chân đạp vào bụng anh Bùi Văn Đ làm anh Đạt bị ngã xuống sân (anh Khánh, anh Đạt là người đang thi hành công vụ). Hành vi của Bùi Xuân N dùng vũ lực cản trở anh Khánh, anh Đạt (là người thi hành công vụ) thực hiện công vụ của hai anh đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

- Vụ việc thứ hai: Do không đồng ý với anh Nguyễn Quý T về bản thiết kế nhà của mình nên khoảng 19 giờ 30 phút ngày 06/12/2021, Bùi Xuân N đến nhà anh Trung để nói chuyện. Nghi cho rằng bản thiết kế của anh Trung gây thiệt hại về tài sản cho Nghi nên Nghi chửi anh Trung, sau đó nhặt 01 viên gạch ném vào cửa chính nhà anh Trung rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi mua 01 con dao bằng kim loại màu đen về để tháo dỡ cốt pha. Khi đi qua nhà anh Trung thì thấy anh Trung cùng vợ là chị Nguyễn Thị Ngọc C đang đứng trước cửa nhà, Nghi tiếp tục vào nhà anh Trung thì anh Trung, chị Chi chạy vào nhà chốt cửa lại, Nghi dùng tay phải cầm tay nắm cửa giật mạnh làm chốt khóa cửa bị hư hỏng, Nghi dùng dao chém vào cửa nhà anh Trung, dùng dao chém vỡ chuông bấm cửa, chém vỡ cửa kính, dùng dao chặt đứt 01 cây hoa hồng, 02 cây hoa giấy nhà anh Trung, nhặt 01 viên gạch ném vào cửa sổ kính bị vỡ. Nghi dùng dao chém vỡ mũ bảo hiểm của anh Nguyễn Quý T, dùng dao chém vào biển kiểm soát, đèn pha trước và đồng hồ xe mô tô của anh Thắng, làm xe mô tô bị hư hỏng. Tổng thiệt hại tài sản là 11.537.800 đồng. Hành vi của Bùi Xuân N đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Viện Kiểm sát nhân dân huyện ĐP truy tố bị cáo Bùi Xuân N về tội “Chống người thi hành công vụ” và tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 330 và khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, bởi vậy phải xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để cải tạo và giáo dục bị cáo thành người tốt. Bị cáo bị xét xử về hai tội, Hội đồng xét xử sẽ tuyên án của từng tội rồi tổng hợp, buộc Bùi Xuân N phải chấp hành hình phạt chung của hai tội theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại là anh Nguyễn Quý T, Nguyễn Quý T có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có điều kiện về tài sản, sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về các biện pháp tư pháp [7.1] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Nguyễn Quý T, anh Nguyễn Quý T cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Lê Duy K, anh Bùi Văn Đ không yêu cầu bị cáo bồi thường, vì vậy Hội đồng xét xử không phải giải quyết.

[7.2] Về xử lý vật chứng Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen bạc, 01 biển kiểm soát 29X3 - 360.67 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Thị T, xác định là của chị Thụy. Ngày 16/7/2021 Công an huyện ĐP đã trả lại chị Thụy là đúng pháp luật.

Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 29X3 - 399.10 của anh Nguyễn Quý T bị Bùi Xuân N làm hư hỏng. Ngày 16/12/2021 Công an huyện ĐP đã trả lại anh Thắng là đúng pháp luật.

01 bộ khóa nhãn hiệu Yale bằng kim loại của anh Nguyễn Quý T, 01 mũ bảo hiểm Royal của anh Nguyễn Quý T. Anh Trung và anh Thắng tự nguyện không nhận lại. Xác định các tài sản này không còn giá trị sử dụng, sẽ tịch thu tiêu hủy.

02 viên gạch nung, 01 con dao bằng kim loại màu đen Bùi Xuân N dùng làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng, sẽ tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 330, khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51;

Điều 38, Điều 55 Bộ luật Hình sự

Xử phạt: Bị cáo Bùi Xuân N 06 (sáu) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, 08 (tám) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp, buộc Bùi Xuân N phải chấp hành phạt chung của hai tội là 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/12/2021.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ khóa cửa ra vào nhãn hiệu Yale bằng kim loại dài 30cm, bị hư hỏng hoàn toàn; 01 mũ bảo hiểm Royal đã qua sử dụng bị hư hỏng hoàn toàn; 02 viên gạch có kích thước 20 cm, rộng 06cm, cao 05 cm; 01 con dao bằng kim loại màu đen, chiều dài 36 cm, phần chuôi dao hình tròn dài 11 cm, phần lưỡi dao dài 25 cm, bản rộng phần lười dao 7,5cm.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23/3/2021 giữa Công an huyện ĐP với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP, Thành phố Hà Nội).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Xuân N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Bùi Xuân N, bị hại là anh Nguyễn Quý T, anh Nguyễn Quý T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại là chị Nguyễn Thị Ngọc C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản số về tội chống người thi hành công vụ số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về