TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH , THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 73/2023/KDTM-ST NGÀY 17/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH CUNG CẤP ĐIỆN
Ngày 17 tháng 8 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện B xét xử vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 05/2023/TLST-KDTM ngày 13/01/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đầu tư xây dựng công trình cung ứng điện” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 327/2023/QĐXXST-KDTM ngày 20/6/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 282/2023/QĐST-KDTM ngày 20/7/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: TỔNG CÔNG TY Đ TP. HTNHH.
Địa chỉ: 35 Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, Quận X, TP. H. Người đại diện theo pháp luật là ông: Nguyễn Văn Thanh - Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Đại diện bởi: Chi nhánh Tổng Công ty Đ TP. H - Công ty Đ B. (gọi tắt là công ty Đ B).
Địa chỉ: D15/10C đường Thế Lữ, ấp 4, xã Tân Kiên, huyện B, Tp.H - Người đại diện là ông: Nguyễn Q Thi - Chức vụ: Giám đốc.
- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Ngọc Q.
Địa chỉ: D15/10C đường Thế Lữ, ấp 4, xã Tân Kiên, huyện B, Thành Phố H (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Bị đơn: CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT NHỰA T. (gọi tắt là công ty Nhựa T).
Địa chỉ: C25/34 Ấp 3, xã Hưng Long, huyện B, Thành Phố H. Đại diện theo pháp luật: Ông Lý Bình Đông, sinh năm 1978.(vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản không tiến hành hòa giải được – Ông Lê Ngọc Q - đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 24/6/2022, Chi nhánh Tổng công ty Đ Thành phố H - Công ty Đ B (sau đây gọi tắt là “Công ty Điện lực B”) đã ký Hợp đồng đầu tư công trình điện phục vụ cho hoạt động mua bán điện ngoài mục đích sinh hoạt số 2698/TCTĐLH-PCBC/HĐĐTXDCTĐ với Công ty TNHH TM và SX Nhựa T, địa chỉ sử dụng điện: C25/34 Ấp 3, xã Hưng Long, huyện B, Tp.H.
Sau khi ký Hợp đồng đầu tư xây dựng công trình điện, Công ty Điện lực B đã thực hiện đầu tư trạm biến áp chuyên dùng cung cấp điện cho Công ty TNHH TM và SX Nhựa T theo đúng nội dung Hợp đồng. Tuy nhiên, Công ty TNHH TM và SX Nhựa T đã không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thực hiện hợp đồng đã ký kết. Số tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng Công ty TNHH TM và SX Nhựa T đã không thực hiện đúng theo nội dung của hợp đồng là 54.679.552 đồng (Năm mươi bốn triệu, sáu trăm bảy mươi chín nghìn, năm trăm năm mươi hai đồng).
Theo Khoản 4.1, Điều 4 Bảo đảm thực hiện hợp đồng, các bên thỏa thuận thời hạn thực hiện bảo đảm thực hiện hợp đồng như sau: “Trong vòng 07 ngày kể từ ngày hợp đồng được các Bên ký kết, Bên B có trách nhiệm gửi cho Bên A bản gốc Thư bảo lãnh không hủy ngang tại Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hợp pháp tại Việt Nam mà Bên B lựa chọn”.
Như vậy, căn cứ theo quy định tại Khoản 4.1, Điều 4 thì Công ty TNHH TM và SX Nhựa T đã vi phạm hợp đồng đầu tư xây dụng công trình điện do không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thực hiện hợp đồng.
Nay Tổng công ty Đ TP. H TNHH khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện B đề nghị Tòa án buộc Công ty TNHH TM và SX Nhựa T phải thực hiện nghĩa vụ thực hiện bảo đảm thực hiện hợp đồng đã ký kết. Trường hợp bị đơn không thực hiện đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng thì bị đơn phải chịu bồi thường thiệt hại chi phí đầu tư công trình, chi phí thu hồi các vật tư đã lắp đặt. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Chi nhánh Tổng công ty Đ Thành phố H - Công ty Đ B khởi kiện tranh chấp hợp đồng đầu tư xây dựng công trình điện với công ty TNHH Thương Mại và Sản Xuất Nhựa T; bị đơn có trụ sở tại huyện B, Thành phố H nên căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H.
[3] Về áp dụng pháp luật: Do giao dịch giữa các đương sự xác lập vào thời điểm Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực nên Tòa án áp dụng Luật Thương mại năm 2005 để giải quyết vụ án.
[4] Về sự vắng mặt của các đương sự:
- Đối với bị đơn, Tòa án nhân dân huyện B đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án. Đại diện nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Tổng công ty Đ Thành Phố H TNHH được thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; mã số doanh nghiệp 0300951119, đăng ký lần đầu ngày 31/3/2010; đăng ký thay đổi lần thứ 9, ngày 28/8/2020. Do Phòng đăng ký kinh doanh-Sở kế hoạch và Đầu tư Thành Phố H chứng nhận.
Chi nhánh tổng công ty Đ Thành Phố H TNHH-Công ty Đ B được thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký hoặt động chi nhánh, mã số 0300951119-022; đăng ký lần đầu, ngày 01/7/2010; đăng ký thay đổi lần thứ 3, ngày 26/7/2019. Do Phòng đăng ký kinh doanh-Sở kế hoạch và Đầu tư Thành Phố H chứng nhận.
Công ty TNHH Thương Mại và Sản Xuất Nhựa T được thành lập theo giấy chứng nhận doanh nghiệp, công ty TNHH một thành viên; mã số doanh nghiệp:
0316213452; đăng ký lần đầu, ngày 21/3/2020; đăng ký thay đổi lần 1 ngày 08/4/2022.
Tại công văn số 01608/ĐKKD, ngày 20/3/2023 của Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở kê hoạch và đầu tư Thành Phố H cung cấp thông tin về công ty TNHH Thương Mại và sản xuất Nhựa T như sau: “Đến nay công ty chưa giải thể”.
Như vậy, Chi nhánh tổng công ty Đ Thành Phố H TNHH-Công ty Đ B có chức năng đầu tư, xây dựng và bán điện cho người tiêu dùng theo thỏa thuận.
Nguyên đơn yêu cầu Công ty TNHH TM và SX Nhựa T thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thực hiện hợp đồng đã ký kết. Số tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng là 54.679.552 đồng .
Các bên ký hợp đồng đầu tư xây dựng công trình điện phục vụ cho hoạt động mua bán điện ngoài mục đích sinh hoạt, nhằm mục đích lợi nhuận nên đây là vụ án kinh doanh thương mại, với quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng đầu tư xây dựng công trình cung cấp điện”.
[5] Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận định như sau:
[5.1]. Căn cứ Hợp đồng đầu tư công trình điện phục vụ cho hoạt động mua bán điện ngoài mục đích sinh hoạt số 2698/TCTĐLH-PCBC/HĐĐTXDCTĐ, ngày 24/6/2022 giữa công ty Đ B và Công ty TNHH TM và SX Nhựa T; thì công ty Đ B đã thực hiện đúng theo thỏa thuận; đã thực hiện đầu tư trạm biến áp chuyên dùng cung cấp điện cho công ty Nhựa T theo đúng nội dung hợp đồng và đã đưa vào sử dụng.
[5.2].Tại Điều 4 của hợp đồng số 2698/TCTĐLH-PCBC/HĐĐTXDCTĐ, ngày 24/6/2022 giữa công ty Đ B và Công ty TNHH TM và SX Nhựa T có thỏa thuận: “Trong vòng 07 ngày kể từ ngày hợp đồng được các Bên ký kết, Bên B có trách nhiệm gửi cho Bên A bản gốc Thư bảo lãnh không hủy ngang tại Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hợp pháp tại Việt Nam mà Bên B lựa chọn với những nội dung như sau: Giá trị bảo lãnh: 10% giá trị vốn đầu tư dự kiến của bên A (tương đương 54.679.552 đồng)…”.
Như vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 4 của hợp đồng thì Công ty TNHH TM và SX Nhựa T đã vi phạm hợp đồng đầu tư xây dụng công trình điện do không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thực hiện hợp đồng.
[6]. Xét hợp đồng đầu tư xây dựng công trình điện phục vụ cho hoạt động mua bán điện ngoài mục đích sinh hoạt số 2698/TCTĐLH- PCBC/HĐĐTXDCTĐ, ngày 24/6/2022 giữa công ty Đ B và Công ty TNHH TM và SX Nhựa T, sự thỏa thuận của các bên là phù hợp pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật và các bên phải thực hiện đúng theo thỏa thuận đã cam kết. Công ty Đ B đã thực hiện đứng theo thỏa thuận, dẫ xây dựng xong và bàn giao đưa công trình vào sử dụng, bị đơn là bên có lỗi nên phải chịu hậu quả về việc vi phạm hợp đồng.
[7]. Công ty TNHH TM và SX Nhựa T là bên vi phạm thỏa thuận về bảo lãnh tại ngân hàng, với số tiền bảo lãnh là 54.679.552 đồng; Do đó, yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ đảm bảo hợp đồng đã ký kết được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên nguyên đơn được quyền lựa chọn ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hợp pháp tại Việt Nam để yêu cầu Công ty TNHH TM và SX Nhựa T phải ký gửi khoản tiền bảo lãnh không hủy ngang theo thỏa thuận.
[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Đ B đối với bị đơn Công ty Nhựa T, buộc bị Công ty TNHH TM và SX Nhựa T phải ký gửi khoản tiền bảo lãnh không hủy ngang tại ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hợp pháp tại Việt Nam do nguyên đơn tự lựa chọn với số bảo lãnh là 54.679.552 đồng.
[9]. Bị đơn, Công ty TNHH TM và SX Nhựa T đã được Tòa án triệu tập đến để ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án. Nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Vì vậy, bị đơn đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.
[10] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp.
[11] Xét lời đề nghị của đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227 và khoản 1 Điều 228; Điều 264, Điều 267 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 306 Luật Thương mại năm 2005;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn TỔNG CÔNG TY Đ TP. HTNHH- Đại diện bởi: Chi nhánh Tổng Công ty Đ TP. H - Công ty Đ B đối với bị đơn Công ty TNHH TM và SX Nhựa T về việc tranh chấp hợp đồng đầu tư xây dựng công trình cung cấp điện.
Buộc Công ty TNHH TM và SX Nhựa T ký gửi số tiền bảo lãnh công trình với số tiền 54.679.552 (Năm mươi tư triệu, sáu trăm bảy mươi chín nghìn, năm trăm năm mươi hai) đồng, tại ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam do nguyên đơn lựa chọn.
Trường hợp Công ty TNHH TM và SX Nhựa T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ việc ký gửi tiền theo án tuyên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc Công ty TNHH TM và SX Nhựa T thực hiện.
2. Về án phí:
2.1 Bị đơn Công ty TNHH TM và SX Nhựa T phải chịu án phí sơ thẩm là 3.000.000 (Ba triệu) đồng.
2.2 Nguyên đơn TỔNG CÔNG TY Đ TP. HTNHH- Đại diện bởi: Chi nhánh Tổng Công ty Đ TP. H - Công ty Đ B được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 3.000.000 (ba triệu) đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0042393 ngày 11/01/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố H.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo luật định.
Bản ánvề tranh chấp hợp đồng đầu tư xây dựng công trình cung cấp điện số 73/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 73/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 17/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về