Bản án XX/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN XX/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN

Ngày 29 thng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2021/TLST-HS ngày 08/9/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Tạ Văn H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh năm: 1991 tại Lâm Đồng.

NKTT và chỗ ở: Thôn 6, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo Nghề nghiệp: Làm vườn; Trình độ học vấn: 12/12 Con ông: Tạ Văn H, sinh năm 1964; Con bà: Nguyễn Thị S, sinh năm 1964. Hiện ông bà thường trú tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; Vợ: Đinh Thị M, sinh năm 1995. Hiện trú tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm. Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2018, hiện sống cùng bố mẹ.

Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giam từ ngày 19/5/2021. Đến ngày 27/8/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

2. Họ và tên: Bùi Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh năm: 1990 tại Hòa Bình.

NKTT và chỗ ở: Thôn 6, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Làm vườn; Trình độ học vấn: 9/12 Con ông: Bùi Văn X, sinh năm 19…; Con bà Bùi Thị Th (chết). Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Vợ: Ka X, sinh năm 1996.

Hiện trú tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018, hiện sống cùng bố mẹ.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

3. Họ và tên: Hồ Ngọc Tuấn V; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh năm: 1989 tại Thừa Thiên Huế.

NKTT: 90 Huỳnh Thúc Kháng, phường 2, Tp. Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Chỗ ở: 44 Trần Quý Cáp, xã Đam Bri, Tp. Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Cán bộ ban QLRPH ĐamBri; Trình độ học vấn: Đại học Con ông: Hồ Ngọc K, sinh năm 1964; Con bà Thái Thị L, sinh năm 1964. Hiện ông bà thường trú tại Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Lê Thị Hồng H, sinh năm 1990.

Hiện trú tại xã ĐamBri, Tp. Bảo Lộc. Bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2021, hiện sống cùng bố mẹ.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

( Các bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người bào chữa cho bị cáo T:

Ông: V Cát Đằng, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

* Nguyên đơn dân sự:

Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri. Địa chỉ: Lộc T, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Người đại diện theo ủy quyền: Có mặt

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 2. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 3. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 4. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 5. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 6. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 7. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 8. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 9. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 10. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 11. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 12. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 13. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 14. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 15. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 16. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt 17. Anh: K’ Thuấn; Sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 6, Lộc Tân, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Từ đầu năm 2018, Tạ Văn H thuê Bùi Văn T và các đối tượng Lý, Hải, Hùng, Mỹ (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) để khai thác gỗ trái phép tại tiểu khu 451, xã B’Lá, các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, lâm phần do Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri quản lý, bảo vệ. Sau khi khai thác xong, H mang lâm sản bán cho một người tên Hùng (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch), số tiền bán lâm sản H trả tiền công cho T và các đối tượng cùng khai thác từ 300.000 đồng đến 700.000 đồng, số tiền còn lại H tiêu xài cá nhân. Đến khoảng tháng 10/2020, Tạ Văn H quen biết với Hồ Ngọc Tuấn V là nhân viên Đội công tác bảo vệ rừng số 6 thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri, phụ trách quản lý các tiểu khu 451, xã B’Lá, các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm. Lúc này, do muốn có tiền tiêu xài, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được phân công, Hồ Ngọc Tuấn V đã bàn bạc với Tạ Văn H để tiến hành khai thác gỗ trái phép tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, Hồ Ngọc Tuấn V với vai trò nhân viên Ban quản lý rừng sẽ nắm thông tin về lịch tuần tra của nhân viên bảo vệ rừng để thông tin cho H lúc nào được khai thác, trước khi đi khai thác H phải gọi cho V, nếu V đồng ý để H vào khai thác tại nơi đã thỏa thuận trước thì H tiến hành khai thác. Trong quá trình khai thác, V ở ngoài trạm quản lý bảo vệ rừng, nếu có cơ quan chức năng kiểm tra, V sẽ thông tin cho H để dừng việc khai thác.

Thực hiện thỏa thuận, H thuê Lý cùng khai thác gỗ tại các tiểu khu 451 xã B’Lá, các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, sau đó tập kết đến vị trí bìa rừng. Tại đây, H thuê Bùi Văn T, K’Thuấn, K’Bréo, K’ês, K’ Lâm, K’Pờm, K’Thi, K’Brim, K’Nhật, cùng trú tại thôn 6, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm vận cHển gỗ, V thuê xe do các đối tượng Lâm Hùng và Đỗ Đình Phúc điều khiển chở gỗ đi bán cho Lương Văn Minh, NKTT: Thôn 7, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm được 11.000.000 đồng và Phạm Ngọc Toàn, NKTT: Thôn 12, xã ĐamBri, Tp. Bảo Lộc được 21.000.000 đồng cùng 02 bức tượng gỗ Toàn đổi cho V thay tiền. Một số gỗ sau khi khai thác H, V chở về nhà để tận dụng, H và V chở đến cho ông Nguyễn Văn Viễn, NKTT: Thôn 1, xã B’Lá, Huyện Bảo Lâm 06 lóng gỗ Socola để tiện thành 06 bình bông, V chở đến cho ông Trương Hữu Thu, NKTT: Thôn 5, xã Lộc Quảng, Huyện Bảo Lâm một số phách gỗ Bạch Tùng để đóng tủ, bàn, Tạ Văn H bán cho ông K’Sĩ, NKTT: Thôn 6, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm một số gỗ để ông K’Sĩ làm cửa nhà. Đến ngày 16/5/2021, Bùi Văn T cùng K’Thuấn rủ nhau đi khai thác gỗ tại thôn 6, xã Lộc Tân, khi các đối tượng đang vận cHển 02 lóng gỗ SP có khối lượng 0,179 m3 thì bị Cơ quan CSĐT Công an Huyện Bảo Lâm phát hiện.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, thu giữ lâm sản tại hiện trường, nơi tiêu thụ tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác xác định hiện trường các bị cáo khai thác gỗ trái phép là tiểu khu 451 thuộc xã B’Lá và các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 thuộc xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng do Ban quản lý lý rừng phòng hộ ĐamBri quản lý và bảo vệ. Hiện trạng rừng sản xuất và rừng phòng hộ. Tổng số lâm sản thiệt hại qua khám nghiệm là 47,022m3 (lâm sản các đối tượng thừa nhận khai thác là 40,075 m3, còn lại 6,947 m3 không xác định được đối tượng khai thác). Trong 40,075 m3 gỗ thừa nhận khai thác, gồm:

Tạ Văn H thuê người và trực tiếp tham gia khai thác 25 cây gỗ các loại, có tổng khối lượng lâm sân thiệt hại là 37,455 m3.

Bùi Văn T tham gia khai thác, vận cHễn 07 cây gỗ các loại và 04 hộp gỗ Kiền Kiền, có tổng khối lượng lâm sản thiệt hại là 26,699 m3, trong đó khai thác 26,294 m3, vận cHển 0,405 m3.

Tại kết luận định giá tài sản số 61/KL-HĐĐGTS và 61.01/KL- HĐĐGTS ngày 01/6/2021 của HĐĐG tài sản Tố tụng hình sự Huyện Bảo Lâm kết luận:

20 cây gỗ các loại có khối lượng 36,991 m3 các bị cáo thừa nhận khai thác tại hiện trường 1 có giá trị 101.992.296 đồng.

06 cây gỗ SP có khối lượng 3,084m3 bị cáo Tạ Văn H thừa nhận khai thác tại hiện trường 2 có giá trị 2.939.270 đồng.

Cây số 20 do Bùi Văn T và K’Thuấn khai thác có khối lượng 2,62 m3 có giá trị 5.659.335 đồng.

26,294 m3 gỗ Bùi Văn T tham gia khai thác có giá trị 72.081.809 đồng.

15 cây gỗ các loại Tạ Văn H cấu kết với Hồ Ngọc Tuấn V khai thác có khối lượng 1 l,757m3 có giá trị 25.011.303 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐGTS ngày 09/7/2021 của HĐĐG tài sản Tố tụng hình sự Huyện Bảo Lâm kết luận: 01 tượng phật được đục bằng gỗ giổi nhóm (III) có trọng lượng 98kg, cao 87 cm, dài 138cm, rộng 48cm, tình trạng gỗ đã cũ nhiều chỗ bị mục có giá trị 1.500.000 đồng; 01 tượng phật được đục bằng gỗ Xá Xị nhóm (II) có trọng lượng 44kg, cao 70 cm, dài 67cm, rộng 42cm, tình trạng gỗ đã cũ nhiều chỗ bị mục có giá trị 1.500.000 đồng; 04 bình bông được tiện bằng gỗ SP (Nhóm IV, hay còn gọi là Sô Cô La) có cùng đặc điểm là cao 101cm, chu vi hình tròn nhỏ nhất là 20 cm, chu vi hình tròn lớn nhất là 60 cm có giá trị 600.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKS ngy 05/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm truy tố bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và Lâm sản” theo điểm b khoản 2 Điều 232 Bộ luật hình sự; bị cáo Hồ Ngọc Tuấn V về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 232; khoản 1 Điều 356; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo H từ 30 đến 36 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 4 đến 5 năm; bị cáo T từ 24 đến 30 tháng tù, cho hưởng án treo, thử thách từ 4 đến 5 năm tù; bị cáo V từ 18 đến 24 tháng tù, cho hưởng án treo, thử thách từ 3 đến 4 năm tù. Ngoài ra Viện Kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí HSST.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T, Hồ Ngọc Tuấn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Về phía nguyên đơn dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an Huyện Bảo Lâm; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Từ đầu năm 2018, Tạ Văn H thuê Bùi Văn T và các đối tượng Lý, Hải, Hùng, Mỹ (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) để khai thác gỗ trái phép tại tiểu khu 451, xã B’Lá, các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, lâm phần do Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri quản lý, bảo vệ. Sau khi khai thác xong, H mang lâm sản bán cho một người tên Hùng (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch), số tiền bán lâm sản H trả tiền công cho T và các đối tượng cùng khai thác từ 300.000 đồng đến 700.000 đồng, số tiền còn lại H tiêu xài cá nhân. Đến khoảng tháng 10/2020, Tạ Văn H quen biết với Hồ Ngọc Tuấn V là nhân viên Đội công tác bảo vệ rừng số 6 thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri, phụ trách quản lý các tiểu khu 451, xã B’Lá, các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm. Lúc này, do muốn có tiền tiêu xài, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được phân công, Hồ Ngọc Tuấn V đã bàn bạc với Tạ Văn H để tiến hành khai thác gỗ trái phép tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, Hồ Ngọc Tuấn V với vai trò nhân viên Ban quản lý rừng sẽ nắm thông tin về lịch tuần tra của nhân viên bảo vệ rừng để thông tin cho H lúc nào được khai thác, trước khi đi khai thác H phải gọi cho V, nếu V đồng ý để H vào khai thác tại nơi đã thỏa thuận trước thì H tiến hành khai thác. Trong quá trình khai thác, V ở ngoài trạm quản lý bảo vệ rừng, nếu có cơ quan chức năng kiểm tra, V sẽ thông tin cho H để dừng việc khai thác.

Thực hiện thỏa thuận, H thuê Lý cùng khai thác gỗ tại các tiểu khu 451 xã B’Lá, các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 tại xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, sau đó tập kết đến vị trí bìa rừng. Tại đây, H thuê Bùi Văn T, K’Thuấn, K’Bréo, K’ês, K’ Lâm, K’Pờm, K’Thi, K’Brim, K’Nhật, cùng trú tại thôn 6, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm vận cHển gỗ, V thuê xe do các đối tượng Lâm Hùng và Đỗ Đình Phúc điều khiển chở gỗ đi bán cho Lương Văn Minh, NKTT: Thôn 7, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm được 11.000.000 đồng và Phạm Ngọc Toàn, NKTT: Thôn 12, xã ĐamBri, Tp. Bảo Lộc được 21.000.000 đồng cùng 02 bức tượng gỗ Toàn đổi cho V thay tiền. Một số gỗ sau khi khai thác H, V chở về nhà để tận dụng, H và V chở đến cho ông Nguyễn Văn Viễn, NKTT: Thôn 1, xã B’Lá, Huyện Bảo Lâm 06 lóng gỗ Socola để tiện thành 06 bình bông, V chở đến cho ông Trương Hữu Thu, NKTT: Thôn 5, xã Lộc Quảng, Huyện Bảo Lâm một số phách gỗ Bạch Tùng để đóng tủ, bàn, Tạ Văn H bán cho ông K’Sĩ, NKTT: Thôn 6, xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm một số gỗ để ông K’Sĩ làm cửa nhà. Đến ngày 16/5/2021, Bùi Văn T cùng K’Thuấn rủ nhau đi khai thác gỗ tại thôn 6, xã Lộc Tân, khi các đối tượng đang vận cHển 02 lóng gỗ SP có khối lượng 0,179 m3 thì bị Cơ quan CSĐT Công an Huyện Bảo Lâm phát hiện.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, thu giữ lâm sản tại hiện trường, nơi tiêu thụ tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác xác định hiện trường các bị cáo khai thác gỗ trái phép là tiểu khu 451 thuộc xã B’Lá và các tiểu khu 453, 454, 455 và 456 thuộc xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng do Ban quản lý lý rừng phòng hộ ĐamBri quản lý và bảo vệ. Hiện trạng rừng sản xuất và rừng phòng hộ. Tổng số lâm sản thiệt hại qua khám nghiệm là 47,022m3 (lâm sản các đối tượng thừa nhận khai thác là 40,075 m3, còn lại 6,947 m3 không xác định được đối tượng khai thác). Trong 40,075 m3 gỗ thừa nhận khai thác, gồm:

Tạ Văn H thuê người và trực tiếp tham gia khai thác 25 cây gỗ các loại, có tổng khối lượng lâm sân thiệt hại là 37,455 m3.

Bùi Văn T tham gia khai thác, vận cHễn 07 cây gỗ các loại và 04 hộp gỗ Kiền Kiền, có tổng khối lượng lâm sản thiệt hại là 26,699 m3, trong đó khai thác 26,294 m3, vận cHển 0,405 m3.

Tại kết luận định giá tài sản số 61/KL-HĐĐGTS và 61.01/KL- HĐĐGTS ngày 01/6/2021 của HĐĐG tài sản Tố tụng hình sự Huyện Bảo Lâm kết luận:

20 cây gỗ các loại có khối lượng 36,991 m3 các bị cáo thừa nhận khai thác tại hiện trường 1 có giá trị 101.992.296 đồng.

06 cây gỗ SP có khối lượng 3,084m3 bị cáo Tạ Văn H thừa nhận khai thác tại hiện trường 2 có giá trị 2.939.270 đồng.

Cây số 20 do Bùi Văn T và K’Thuấn khai thác có khối lượng 2,62 m3 có giá trị 5.659.335 đồng.

26,294 m3 gỗ Bùi Văn T tham gia khai thác có giá trị 72.081.809 đồng.

15 cây gỗ các loại Tạ Văn H cấu kết với Hồ Ngọc Tuấn V khai thác có khối lượng 1 l,757m3 có giá trị 25.011.303 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐGTS ngày 09/7/2021 của HĐĐG tài sản Tố tụng hình sự Huyện Bảo Lâm kết luận: 01 tượng phật được đục bằng gỗ giổi nhóm (III) có trọng lượng 98kg, cao 87 cm, dài 138cm, rộng 48cm, tình trạng gỗ đã cũ nhiều chỗ bị mục có giá trị 1.500.000 đồng; 01 tượng phật được đục bằng gỗ Xá Xị nhóm (II) có trọng lượng 44kg, cao 70 cm, dài 67cm, rộng 42cm, tình trạng gỗ đã cũ nhiều chỗ bị mục có giá trị 1.500.000 đồng; 04 bình bông được tiện bằng gỗ SP (Nhóm IV, hay còn gọi là Sô Cô La) có cùng đặc điểm là cao 101cm, chu vi hình tròn nhỏ nhất là 20 cm, chu vi hình tròn lớn nhất là 60 cm có giá trị 600.000 đồng.

[3] Hành vi khai thác lâm sản trái phép của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự; các bị cáo nhận thức và biết được rằng rừng là tài nguyên Quốc gia, nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi khai thác lâm sản tri php, nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân, các bị cáo ngang nhiên cưa hạ cây rừng trái phép; hành vi trên đã xâm phạm đến quy định của nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an xã hội tại địa phương. Do vậy cần được xử lý bằng một bản án thật nghiêm khắc theo qui định của pháp luật mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không 

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nộp tiền bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo điểm b, s khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự.

[6] Xét bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T, Hồ Ngọc Tuấn V có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại không vi phạm pháp luật, do đó không cần thiết xử phạt tù giam mà cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục theo qui định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 cũng có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[7] Về phần dân sự: Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri yêu cầu các bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại về lâm sản là 104.931.566 đồng. Bị cáo Tạ Văn H đã nộp bồi thường 100.000.000 đồng; bị cáo Bùi Văn T đã nộp bồi thường 5.000.000 đồng, Hồ Ngọc Tuấn V đã nộp 10.000.000 đồng nên về trách nhiệm dân sự không đề cập đến. Đối với số tiền còn thừa……………………….

…………………………………………………………………………………….

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT đang tạm giữ 01 máy cưa xăng hiệu Yataka, có lam màu trắng dài 60cm; 02 dây xích máy cưa, đã cũ kỷ, dài 60cm; 01 xe máy độ chế không biển kiểm soát, không số khung, số máy; 01 cục tời của Tạ Văn H; 01 máy cưa xăng, có lốc máy màu đỏ trắng, lam màu trắng dài 60cm, trên lam có ghi dòng chữ SPADA; 01 con dao tự chế, lưỡi dài 33cm, cán bằng gỗ dài 23cm; 01 xe máy độ chế không biển kiểm soát, không số khung, số máy của Bùi Văn T; 01 xe máy độ chế không biển kiểm soát, không số khung, số máy của K’Thuấn. Tịch thu sung quĩ nhà nước.

Đối với 02 lóng gỗ (SP), có khối lượng 0,179m3 thu giữ của Bùi Văn T, 63 phách, bìa hộp lá gỗ Bạch tùng có tổng khối lượng 0,247m3 thu giữ tại nhà Trương Hữu Thu, 04 hộp gỗ Kiền và 08 lóng gỗ SP có tổng khối lượng l,678m3 thu giữ tại nhà Phạm Ngọc Toàn, 08 lóng gỗ SP (Socola) có tổng khối lượng 0,396 m3 thu giữ tại nhà Hồ Ngọc Tuấn V, 18 cục gỗ Giổi có tổng khối lượng 1,384 m3 thu giữ tại nhà Tạ Văn H, 02 tượng phật Di Lạc bằng gỗ và 04 bình bông bằng gỗ Hồ Ngọc Tuấn V giao nộp. Tịch thu sung quĩ nhà nước.

Đối với khối lượng gỗ còn lại tại hiện trường 26,431 m3, do chi phí thu hồi cao hơn giá trị gỗ nên không tiến hành thu hồi, để tự hủy tại hiện trường.

Vật chứng là 01 cặp học sinh; 01 đèn pin đội đầu, 01 chai nhựa, tuyên tiêu hủy.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Trong vụ án này, các đối tượng liên quan gồm: KThuấn, K’ Bréo, K’ Lês, K’ Lâm, K’ Pờm, KThi, K’ Brim, K’ Nhật, Lâm Hùng, Đỗ Đình Phúc có hành vi vận cHển lâm sản trái phép, Lương Văn Minh, Phạm Văn Toàn, K’Sĩ có hành vi mua bán lâm sản trái phép, Nguyễn Văn Viễn, Trương Hữu Thu có hành vi chế biến lâm sản không đầy đủ giấy tờ họp pháp. Tuy nhiên khối lượng lâm sản vi phạm chưa đến mức xử lý hình sự, cơ quan điều tra xử lý hành chính là có căn cứ nên không xem xét xử lý trong vụ án này.

[11] Thiệt hại về lâm sản do các đối tượng gây ra được định giá 104.931.566 đồng có dấu hiệu của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện trường khai thác được lâm sản được Ban quản lý rừng phòng hộ ĐamBri phân công cho nhiều nhân viên quản lý, Đội Công tác Bảo vệ rừng số 6 phụ trách khu vực bị khai thác được thành lập từ 31/7/2020 do ông Nguyễn Lâm Tới làm đội trưởng, Lưu Công Trí là nhân viên, khối lượng lâm sản thiệt hại từ khi đội cHên trách được thành lập và đối với mỗi nhân viên tiểu khu không đủ định lượng để xử lý hình sự nên xử lý kỷ luật hành chính đối với các cá nhân này là có căn cứ.

[12] Về án phí: Bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T, Hồ Ngọc Tuấn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Lê Công Đại phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T, Hồ Ngọc Tuấn V phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và Lâm sản.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 232; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Tạ Văn H 30 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm tính từ ngày 29/9/2021.

- Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 24 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày 29/9/2021.

* Áp dụng khoản 1 Điều 356; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Hồ Ngọc Tuấn V 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày 29/9/2021.

Giao bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Lộc Tân, Huyện Bảo Lâm; giao bị cáo Hồ Ngọc Tuấn V cho Ủy ban nhân dân xã Đam Bri, Tp. Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người bị kết án. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành án thực hiện theo qui định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quĩ nhà nước gồm: 01 máy cưa xăng hiệu Yataka, có lam màu trắng dài 60cm; 02 dây xích máy cưa, đã cũ kỷ, dài 60cm;

01 xe máy độ chế không biển kiểm soát, không số khung, số máy; 01 cục tời của Tạ Văn H; 01 máy cưa xăng, có lốc máy màu đỏ trắng, lam màu trắng dài 60cm, trên lam có ghi dòng chữ SPADA; 01 con dao tự chế, lưỡi dài 33cm, cán bằng gỗ dài 23cm; 01 xe máy độ chế không biển kiểm soát, không số khung, số máy của Bùi Văn T; 01 xe máy độ chế không biển kiểm soát, không số khung, số máy của K’Thuấn. Tịch thu sung quĩ nhà nước.

Đối với 02 lóng gỗ (SP), có khối lượng 0,179m3 thu giữ của Bùi Văn T, 63 phách, bìa hộp lá gỗ Bạch tùng có tổng khối lượng 0,247m3 thu giữ tại nhà Trương Hữu Thu, 04 hộp gỗ Kiền và 08 lóng gỗ SP có tổng khối lượng l,678m3 thu giữ tại nhà Phạm Ngọc Toàn, 08 lóng gỗ SP (Socola) có tổng khối lượng 0,396 m3 thu giữ tại nhà Hồ Ngọc Tuấn V, 18 cục gỗ Giổi có tổng khối lượng 1,384 m3 thu giữ tại nhà Tạ Văn H, 02 tượng phật Di Lạc bằng gỗ và 04 bình bông bằng gỗ Hồ Ngọc Tuấn V giao nộp. Tịch thu sung quĩ nhà nước.

Đối với khối lượng gỗ còn lại tại hiện trường 26,431 m3, do chi phí thu hồi cao hơn giá trị gỗ nên không tiến hành thu hồi, để tự hủy tại hiện trường.

Vật chứng là 01 cặp học sinh; 01 đèn pin đội đầu, 01 chai nhựa, tuyên tiêu hủy.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự. Buộc các bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T, Hồ Ngọc Tuấn V bồi thường số tiền 104.931.566 đồng sung quĩ nhà nước.

(H nộp 100.000.000 đồng; bị cáo Bùi Văn T đã nộp bồi thường 5.000.000 đồng, Hồ Ngọc Tuấn V đã nộp 10.000.000 đồng nên về trách nhiệm dân sự không đề cập đến. Đối với số tiền còn thừa……………………………..)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Tạ Văn H, Bùi Văn T, Hồ Ngọc Tuấn V mỗi bị cáo nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, nguyên đơn dân sự, người liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người liên quan vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án (hoặc niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã phường nơi cư trú) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. (Người liên quan chỉ được quyền kháng cáo phần có liên quan).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án XX/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

Số hiệu:XX/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về