Bản án XX/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN XX/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2020/TLST-HS, ngày 25 tháng 8 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 12/QĐXXST-HS ngày 08/9/2020, đối với các bị cáo:

1. Đinh Công X; Sinh ngày 17/6/1996 tại huyện T, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm G, xã P, huyện T, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

9/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Công D, sinh năm 1968 và bà Đinh Thị N, sinh năm 1966; Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

2. Bùi Văn T; Sinh ngày 13/2/2001 tại Tân Lạc, Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm G, xã P, huyện T, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn H, sinh năm 1973 và bà Bùi Thị K, sinh năm 1973; Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

3. Đỗ Tiến S; Sinh ngày 16/11/1996 tại huyện B, tỉnh L; Nơi cư trú: tổ dân phố số 3, thị trấn P, huyện B, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Đỗ Tiến T, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1963; Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1999; Con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Đinh Công X bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2020; Bị cáo Bùi Văn T và bị cáo Đỗ Tiến S bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2020 tại Nhà tạm giữ - công an huyện T, tỉnh H về hành vi phạm tội trong một vụ án khác do Tòa án nhân huyện T, tỉnh H đang thụ lý và giải quyết. Các bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Vũ Thị Hồng L; Sinh năm 1986; Trú tại P, xã T, huyện C, tỉnh H. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đinh Công S; Sinh năm 1994; Trú tại: xóm G, xã P, huyện T, tỉnh H. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 16/8/2018 Đinh Công X, sinh năm 1996 trú tại xóm G, xã P, huyện T, tỉnh H có điện thoại cho Đỗ Tiến S sinh năm 1996 trú tại tổ dân phố 3, thị trấn P, huyện B, tỉnh L, hiện đang lái xe thuê tại huyện Y, tỉnh V với nội dung rủ Sơn cùng lên Thái Nguyên chơi. Khoảng 00 giờ ngày 17/8/2018 Đinh Công X sang nhà Bùi Văn T sinh năm 2001 cùng trú tại xóm G, xã P, huyện T, tỉnh H và rủ Thuận cùng đi Thái Nguyên chơi. Xuận điều khiển xe ô tô nhãn hiệu THACO, biển kiểm soát 28C-04697 của X chở T đi từ nhà hướng thành phố H. Khi đi đến khu vực dốc Nếp thuộc phố B, xã T, huyện C, tỉnh H thì Đinh Công X phát hiện chuồng trâu của gia đình chị Vũ Thị Hồng L, sinh năm 1986, trú tại phố B, xã T, huyện C, tỉnh H cách đường Quốc lộ 6 khoảng 20 mét đang nhốt trâu trong chuồng, X nẩy sinh ý định trộm cắp trâu, X dừng xe và bảo T vào trộm trâu, T đồng ý. T xuống xe đi vào chuồng trâu để dắt trộm trâu, còn X điều khiển xe ô tô đỗ cạnh lề đường, sát gần mô đất đầu xe ô tô hướng C - H để quan sát cảnh giới. Khoảng 20 phút sau T dắt 01 con trâu cái màu đen ra, X xuống mở thùng xe để T dắt trâu lên thùng còn X đứng sau đẩy trâu lên sau đó đóng thùng xe lại. Khi trộm được trâu X điều khiển xe cùng T đi về xã T, huyện Y, tỉnh V để gặp S. Khoảng 7 giờ 30 phút cùng ngày, khi gần đến nơi, X gọi điện thoại cho Sơn bảo Sơn ra cổng Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh V để gặp nhau. Khi S đến nơi T vẫn ngồi trên xe còn X xuống xe gặp S và bảo “Tao với Thuận vừa trộm được con trâu, mày mang đi bán” S đồng ý. Sau đó X đưa xe cho S điều khiển cùng với T đi lên Lào Cai để bán trâu, còn X bắt xe khách đi Thái Nguyên chơi. S điều khiển xe cùng T chở trâu đến chợ C, xã C, huyện B, tỉnh L bán trâu cho một người đàn ông không quen biết với giá 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng). Ngày 19/08/2018 Sau khi bán trâu xong S gọi điện cho X hỏi đang ở đâu để trả xe và chia số tiền bán trâu được, Xuận hẹn gặp tại ngã ba K, gần cao tốc N - L. Khi gặp nhau cả ba chia nhau số tiền bán trâu trộm cắp được trước đó: X nhận được số tiền là 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng); T nhận được số tiền là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) và S nhận được số tiền là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Còn 1.500.000đ ( Một triệu năm trăm nghìn đồng) S dùng mua dầu đổ xe và chi tiêu dọc đường hết. Sau đó X lái xe về nhà trước ở xóm Gc, xã P, huyện T, tỉnh H; S đi về xã T, huyện Y, tỉnh V để làm việc còn T bắt xe khách về nhà sau.

Ngày 31/3/2020 chị Vũ Thị Hồng L đã có đơn trình báo Cơ quan CSĐT- Công an huyện C về việc gia đình chị bị mất trộm con trâu cái màu đen, khoảng 7-8 năm tuổi, sừng dài khoảng 2,4m, chiều cao thân khoảng 1,45m. Các bị cáo cùng thống nhất lời khai về đặc điểm con trâu đã trộm cắp được giống như chị L trình báo.

Tại bản kết luận số 03/KL-HĐĐG ngày 06/4/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Cao Phong đã xác định: Một con trâu cái màu đen, khoảng 7- 8 năm tuổi, sừng dài khoảng 2,4m, chiều cao thân khoảng 1,45m có giá trị tại thời điểm ngày 17/8/2018 là 23.000.000đ ( Hai mươi ba triệu đồng chẵn) Cơ quan CSĐT- Công an huyện Cao Phong đã ra thông báo truy tìm vật chứng số 87 ngày 01/ 04/2020 về con trâu bị trộm cắp đến Phòng PC01, PC02 Công an tỉnh Hòa Bình và Công an các huyện, thành phố trong tỉnh Hòa Bình nhưng đến nay chưa có thông tin gì.

Vật chứng còn lại trong vụ án là chiếc xe ô tô THACO biển kiểm soát: 28C-046.97 mà Đinh Công Xuận dùng làm phương tiện vận chuyển trâu hiện đang bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Lạc tạm giữ để phục vụ công tác điều tra trong vụ án hình sự Trộm cắp tài sản xảy ra ngày 20/3/2020 tại xóm K, xã P, huyện T, tỉnh H. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cao Phong không tiến hành thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu và vật chứng gì của vụ án.

Về phần dân sự: Các bị cáo đã tự nguyện đã nhờ anh Đinh Công S là anh trai của bị cáo Đinh Công X đứng ra bồi thường giúp số tiền là 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng) cho bị hại là chị Vũ Thị Hồng L. Sau khi nhận số tiền trên bị hại không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Đinh Công X và Bùi Văn T.

Bản cáo trạng số: 10/CT-VKSCP ngày 24/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình truy tố Đinh Công X và Bùi Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; truy tố Đỗ Tiến S về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Đinh Công X phạm tội trộm cắp tài sản và xử phạt bị cáo từ ..... đến .... tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội trộm cắp tài sản và xử phạt bị cáo từ ..... đến .... tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Đỗ Tiến S phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và xử phạt bị cáo từ ..... đến .... tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Vũ Thị Hồng L đã nhận đủ toàn bộ số tiền bồi thường, không có yêu cầu gì thêm; anh Bùi Văn S đã thay các bị cáo trả cho bị hại số tiền 23.000.000đ và không yêu cầu các bị cáo hoàn trả, nên không đề cập xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các bị cáo và bị hại theo quy định của pháp luật.

Bị hại chị Vũ Thị Hồng L không có mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt chị L trình bày các bị cáo đã bồi thường cho chị số tiền 23.000.000đ tương đương với giá trị con trâu mà các bị cáo đã trộm cắp, nay chị không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự. Tại Cơ quan Điều tra chị Vũ Thị Hồng L có bản tự khai đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Bùi Văn S không có đề nghị gì về phần dân sự, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Các bị cáo đều từ chối Trợ giúp viên pháp lý, tại phiên tòa các bị cáo đều đồng ý với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Phong.

Lời sau cùng: Các bị cáo rất ăn năn, hối hận và nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, xác định:

Đêm ngày 17/8/2018 tại khu vực phố B, xã T, huyện C, tỉnh H, Đinh Công X và Bùi Văn T đang điều khiển xe ô tô tải hiệu THACO đi Vĩnh Phúc chơi đã phát hiện bên cạnh đường có một chuồng trâu không có người trông giữ, X và T đã nảy sinh ý định trộm cắp trâu, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản 2 bị cáo đã lẻn vào chuồng trâu và lén lút dắt trộm một con trâu cái khoảng 7-8 năm tuổi trị giá 23.000.000đ. Vì mục đích vụ lợi, muốn có tiền tiêu xài cá nhân X và T đã tiếp tục đẩy con trâu lên thùng xe và chở về V. Tại đây X giao trâu và xe cho T cùng với Đỗ Tiến S đem trâu lên L bán lấy tiền về chia nhau. Tại thời điểm X giao xe và trâu cho S đi bán, Sơn biết rõ con trâu là tài sản do X và T trộm cắp mà có nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Do đó đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Đinh Công X và Bùi Văn T thực hiện đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; hành vi của bị cáo Đỗ Tiến S đã phạm vào tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại khoản 1 Điều 323 như Cáo trạng Viện kiểm sát huyện Cao Phong truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Các bị cáo Đinh Công X, Bùi Văn T, Đỗ Tiến S đều là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức về xã hội và pháp luật của Nhà nước. Tuy tuổi còn trẻ, đang trong độ tuổi lao động nhưng các bị cáo không chịu lao động chân chính lại muốn có tiền tiêu xài cho bản thân nên đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ gây thiệt hại về tài sản cho người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và bất bình trong đời sống xã hội nên cần có hình phạt nghiêm minh, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ mới đủ tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

Đánh giá vai trò của các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này, bị cáo Đinh Công X và Bùi Văn T đồng phạm trong tội Trộm cắp tài sản nhưng các bị cáo không có sự bàn bạc, lên kế hoạch phạm tội từ trước nên Hội đồng xét xử đánh giá đây là vụ án có đồng phạm mang tính chất giản đơn. Bị cáo X là người đầu tiên nảy sinh ý định trộm trâu rồi rủ bị cáo T cùng thực hiện nên cần xác định bị cáo X có vai trò cao hơn bị cáo T. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 17/8/2018 bị cáo T 17 tuổi 6 tháng 4 ngày nên cần áp dụng các điều luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định hình phạt đối với bị cáo T tương ứng với ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo Đinh Công X, Bùi Văn T, Đỗ Tiến S đều thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; hành vi phạm tội của các bị cáo gây thiệt hại không lớn và đã được các bị cáo tự nguyện tác động tới gia đình để khắc phục bồi thường toàn bộ cho bị hại, bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho các bị cáo.

Riêng đối với bị cáo Bùi Văn T, lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

Đối với bị cáo Đinh Công X và Đỗ Tiến S, cơ quan tiến hành tố tụng đã xác minh trước lần phạm tội này 2 bị cáo đã có hành vi Trộm cắp tài sản vào ngày 28/5/2018 tại xã P, huyện T, tỉnh H. Hành vi này đã bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H xét xử bằng Bản án số 24/2020/HSST ngày 10/9/2020. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” đối với 2 bị cáo Đinh Công X và Đỗ Tiến S theo hướng dẫn tại Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân Tối cao ngày 07/4/2017.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Bùi Văn T và Đỗ Tiến S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với bị cáo Đinh Công X, bị cáo là anh họ của bị cáo Bùi Văn T, biết rõ Thuận chưa đủ 18 tuổi nhưng bị cáo vẫn cố tình rủ rê Thuận cùng thực hiện hành vi phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có công ăn việc làm, không có tài sản riêng do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại chị Vũ Thị Hồng L đã được bồi thường toàn bộ tài sản bị trộm cắp và không đề nghị bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Anh Bùi Văn S đã thay mặt các bị cáo bồi thường số tiền 23.000.000đ cho bị hại, anh Siện không yêu cầu các bị cáo hoàn trả số tiền này nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Vật chứng còn lại trong vụ án là chiếc xe ô tô THACO biển kiểm soát: 28C-046.97 mà Đinh Công X dùng làm phương tiện vận chuyển trâu đã được xử lý theo quy định của pháp luật tại Bản án số 24/2020/HSST ngày 10/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về những vấn đề khác:

Các bị cáo Đinh Công X, Bùi Văn T và Đỗ Tiến S đã bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H xét xử về hành vi Trộm cắp tài sản bằng Bản án số 24/2020/HSST ngày 10/9/2020, đến nay chưa có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không tiến hành tổng hợp hình phạt đối với các bị cáo trong bản án này.

Đối với người đàn ông không rõ tên tuổi đã mua con trâu do các bị cáo trộm cắp tại chợ C, huyện B, tỉnh L hiện nay Cơ quan điều tra đang tiến hành xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ xử lý trong một vụ án khác, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đinh Công X, bị cáo Bùi Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản;

bị cáo Đỗ Tiến S phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

- Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh Công X 12 (Mười hai) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Đinh Công X chấp hành hình phạt của bản án này.

- Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 101 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 7 (bảy) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Bùi Văn T chấp hành hình phạt của bản án này.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đỗ Tiến S 9 (chín) tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Đỗ Tiến S chấp hành hình phạt của bản án này.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Đinh Công X, Bùi Văn T, Đỗ Tiến S mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án XX/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:XX/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Phong - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về