TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ YÊU CẦU LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 73/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 về “Yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/5/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23/5/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn : Chị Đ T T S. Sinh năm: 1983.
Địa chỉ: 322/7 đường TC, tổ 2, phường TB, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Bị đơn Anh T V H. Sinh năm: 1981.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 174 ĐT, tổ 2, phường TS, thị xã AK, tỉnh Gia Lai. Chỗ ở hiện nay: 322/7 đường TC, tổ 2, phường TB, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 2 năm 2022 bản tự khai và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thể hiện:
Về hôn nhân: Chị Đ T T S và anh T V H tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường YĐ, thành phố P, tỉnh Gia Lai ngày 27/01/2014. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, cho đến năm 2017 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm và lối sống, thường xuyên xảy ra tranh cãi, chồng chị không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình làm cho không khí trong gia đình luôn căng thẳng. Mặc dù, hai bên gia đình đã nhiều lần hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không hàn gắn được. Do vợ chồng không còn sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, chị S yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T V H.
- Về con chung: Quá trình chung sống chị Đ T T S và anh T V H có 02 con chung là TNTN, sinh ngày 02/5/2014 và TNK, sinh ngày 23/12/2018. Ly hôn chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị S không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh T V H:
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo trình tự, thủ tục giải quyết vụ án cho anh T V H. Tuy nhiên, anh H không đến Tòa án tham gia tố tụng, không có lời khai tại hồ sơ và tại phiên tòa.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/4/2022 cháu TNTN đã khai, nếu ba mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với mẹ (Đ T T S).
Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu ý kiến tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật . Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm đối với nguyên đơn. Riêng bị đơn anh T V H Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh H không đến Tòa án nhân dân thành phố P tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ hòa giải. Vì vậy việc chấp hành pháp luật của bị đơn không tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P về việc giải quyết vụ án:
- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố P theo quy định của khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ T T S và anh T V H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường YĐ, thành phố P, tỉnh Gia Lai, ngày 27/01/2014, nên xác định đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Chị S cho rằng cuộc sống hôn nhân của anh, chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn. Bị đơn anh T V H Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến tham gia phiên họp hòa giải đoàn tụ vợ chồng và tại phiên Tòa hôm nay anh H cũng vắng mặt. Như vậy có thể khẳng định anh H không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng cũng như bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình.
- Về con chung: Anh, chị có hai con chung là cháu TNTN, sinh ngày 02/5/2014 và cháu TNK, sinh ngày 23/12/2018. Ly hôn chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Tài sản riêng, chung và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.
Từ sự phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đ T T S cho ly hôn giữa chị Đ T T S và anh T V H.
- Giao con chung là cháu TNTN, sinh ngày 02/5/2014 và cháu TNK, sinh ngày 23/12/2018 cho chị S nuôi con. Chị S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.
Về án phí DSST: Tòa án buộc chị S phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng dân sự: Chị Đ T T S có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố P – tỉnh Gia Lai, giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con, đối với bị đơn anh T V H có nơi cư trú tại 322/7 đường TC, tổ 2, phường TB, thành phố P, tỉnh Gia Lai; vì vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ T T S và anh T V H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường YĐ, thành phố Pleku, tỉnh Gia Lai, ngày 27/01/2014. Sau khi kết hôn cuộc sống của hai vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, yêu thương nhau. Nhưng thời gian từ năm 2017 đến nay giữa anh, chị phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm và cãi vã nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, anh H không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình làm cho không khí trong gia đình luôn căng thẳng, gây tâm lý lo lắng bất an cho chị và các con, do đó tình cảm vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng nhau mục đích hôn nhân không đạt được. Chị S nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn rất trầm trọng không thể hàn gắn được nên yêu cầu tòa án giải quyết được ly hôn với anh T V H.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị S yêu cầu ly hôn với anh H, Tòa án đã triệu tập nhiều lần anh H đến Tòa án, nhưng anh H không đến để trình bày ý kiến và nguyên nhân mâu thuẫn để hòa giải đoàn tụ. Tòa án đã tiến hành xác minh địa chỉ mà anh H thường xuyên sinh sống để tống đạt các văn bản tố tụng cho anh H biết để đến tòa án và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng anh H vẫn không chấp hành, như vậy chứng tỏ rằng anh H không mong muốn hàn gắn tình cảm, đoàn tụ gia đình, bỏ mặc cho cuộc sống hôn nhân của mình. Cho nên đến tại thời điểm này chị S xác định không còn tình cảm với nhau nữa, không còn muốn yêu thương chăm sóc lẫn nhau, do đó mà mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy chị Đ T T S đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh H, xét yêu cầu này của chị S là chính đáng, phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần được chấp nhận.
[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống anh, chị có có hai con chung là: TNTN, sinh ngày 02/5/2014 và cháu TNK, sinh ngày 23/12/2018. Ly hôn chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Theo nguyện vọng của cháu TN cũng mong muốn được sống với mẹ. Như vậy yêu cầu của chị S phù hợp với nguyện vọng của cháu TN nên cần chấp nhận.
Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.
Xét thấy yêu cầu này phù hợp với quy định pháp luật, cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Nên giao con chung là cháu TNTN, sinh ngày 02/5/2014 và cháu Trần Nguyên Khôi, sinh ngày 23/12/2018 cho chị S nuôi dưỡng đến khi trưởng thành hoặc khi anh H có yêu cầu khác.
Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con, chị S không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đ T T S là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng : Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14.
Xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đ T T S và anh T V H.
- Về con chung: Giao con chung là: cháu TNTN, sinh ngày 02/5/2014 và cháu TNK, sinh ngày 23/12/2018 cho chị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị S không yêu cầu nên không xem xét.
Vì lợi ích của con khi cần thiết đương sự có quyền làm đơn xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
- Về tài sản chung, riêng, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đ T T S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngh n đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0001308 ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia lai. Chị S đã nộp đủ.
- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (ngày 16/8/2021). Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 7b Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án về yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 29/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về