Bản án về yêu cầu hủy quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường số 203/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 203/2023/HC-PT NGÀY 29/03/2023 VỀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH THU HỒI ĐẤT VÀ PHÊ DUYỆT PHƯƠNG ÁN BỒI THƯỜNG

Ngày 29 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử công khai vụ án hành chính thụ lý số 506/2022/TLPT-HC ngày 14 tháng 11 năm 2022 về việc “Yêu cầu hủy quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất và hành vi không giải quyết khiếu nại”, do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2393/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữa các đương sự sau:

* Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1972; Địa chỉ: Xóm S, thôn B, xã Đại; Bái, huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người bị kiện:

1. Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Ninh.

- Đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Đình M– Chủ tịch; Vắng mặt.

- Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá T1 - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân Ninh dân huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Ninh.

- Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá T1 - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân Ninh dân huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Ninh;

1 - Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn D - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: xã B, huyện B, tỉnh Bắc Ninh.

2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; Địa chỉ: Xóm S, thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Đại diện theo ủy quyền của bà H: ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1972; Địa chỉ: Xóm S, thôn B, xã Đại; Bái, huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng người khởi kiện trình bày:

Theo chủ trương chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1960 gia đình ông và 90 hộ dân khác ở xóm S, thôn B được Nhà nước giao đất nông nghiệp 5% tại khu đất Đồng Trai để sử dụng lâu dài. Tuy nhiên, năm 2021 UBND huyện B thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B đã thu hồi đất của gia đình ông và người dân xóm S được giao sử dụng lâu dài nêu trên.

Tại dự án này, gia đình ông bị UBND huyện B thu hồi 200m2 đất nông nghiệp. Gia đình ông không đồng ý với chủ trương thu hồi đất của UBND huyện B. Ông không đồng ý với các quyết định của UBND huyện B về thu hồi đất này, gia đình ông muốn giữ lại đất để trồng lúa tiếp nên gia đình cũng không đồng ý với phương án bồi thường hỗ trợ và chưa nhận tiền bồi thường hỗ trợ của UBND huyện B.

Quá trình thực hiện dự án, UBND xã B phá mương máng không cho gia đình ông cấy lúa từ khi có quyết định thu hồi đất đến nay. Ông yêu cầu UBND xã B bồi thường cho phải ông số tiền 1.800.000 đồng do không cấy lúa được từ khi có quyết định thu hồi đất.

Yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết:

1. Tuyên bố hành vi không giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện B đối với đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn B là trái pháp luật.

2. Hủy Quyết định số 918/QĐ- UBND ngày 30/9/2021 của UBND huyện B về việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B đối với gia đình ông Nguyễn Văn B.

3. Hủy Quyết định số 919/QĐ- UBND ngày 30/9/2021 của UBND huyện B về việc phê duyệt phương án việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B đối với gia đình ông Nguyễn Văn B.

4. Yêu cầu UBND huyện B phải trả lại nguyên hiện trạng thửa đất nông nghiệp của gia đình ông Nguyễn Văn B.

5. Yêu cầu UBND xã B bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Văn B số tiền 1.800.000 đồng.

* Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện trình bày:

Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B là dự án Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng theo điểm d khoản 3 Điều 62 Luật đất đai 2013. Do vậy, giá bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất trong trường hợp này được áp dụng theo quy định của UBND tỉnh Bắc Ninh tại Quyết định 19/2020/QĐ-UBND ngày 30/12/2020.

Về trình tự thủ tục lập hồ sơ thu hồi đất, hồ sơ về phương án bồi thường, hỗ trợ được đảm bảo công bằng, khách quan, trung thực, chính xác đúng theo quy định tại Điều 69 Luật Đất đai năm 2013.

Ngày 30/9/2021, UBND huyện B đã ban hành Quyết định số 918/QĐ- UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B.

Ngày 30/9/2021, UBND huyện B đã ban hành Quyết định số 919/QĐ- UBND về việc phê duyệt phương án việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B.

Theo Quyết định số 918 và Quyết định số 919, đối với gia đình ông Nguyễn Văn B diện tích thu hồi để thực hiện dự án là 200m2; loại đất: đất chuyên trồng lúa nước (LUC); hình thức sử dụng đất giao ổn định lâu dài; tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 87.800.000 đồng. Đến nay gia đình ông Bình chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định.

Người bị kiện khẳng định thẩm quyền và trình tự thủ tục thu hồi đất cũng như phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất là đúng quy định pháp luật. Đồng thời, Chủ tịch UBND huyện B cũng không nhận được đơn khiếu nại của các hộ dân liên quan đến việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B. Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.

* UBND xã B đồng ý quan điểm của UBND huyện B. Về việc các hộ cho rằng xã cấm không cho các hộ canh tác là không đúng. Khu vực này hiện này chưa bồi thường cho các hộ có đất thu hồi xong, đến nay UBND xã chưa san lấp mặt bằng thi công nên ruộng vẫn còn nguyên vẹn. Do vậy việc các hộ yêu cầu UBND xã bồi thường thiệt hại do không cấy được là không có cơ sở. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:

Căn cứ Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ Điều 62, Điều 66, Điều 69 Luật đất đai 2013; Điều 18, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật khiếu nại 2011 ; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B gồm:

- Bác yêu cầu khởi kiện về việc hành vi không giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện B đối với đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn B.

- Bác yêu cầu khởi kiện về việc Hủy Quyết định số 918/QĐ- UBND ngày 30/9/2021 của UBND huyện B về việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B đối với gia đình ông Nguyễn Văn B.

- Bác yêu cầu khởi kiện về việc Hủy Quyết định số 919/QĐ- UBND ngày 30/9/2021 của UBND huyện B về việc phê duyệt phương án việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B đối với gia đình ông Nguyễn Văn B.

- Bác yêu cầu khởi kiện về việc Yêu cầu UBND huyện B phải trả lại nguyên hiện trạng thửa đất nông nghiệp của gia đình ông Nguyễn Văn B.

- Bác yêu cầu khởi kiện về việc Yêu cầu UBND xã B bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Văn B số tiền 1.800.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/8/2022, người khởi kiện ông Nguyễn Văn B có đơn kháng cáo

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người khởi kiện và kháng cáo là ông Nguyễn Văn B vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nội dung đơn đề nghị xét xử thể hiện nội dung giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo và lời khai như đã trình bày tại Tòa án cấp sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm.

Người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Ninh và Chủ tịch huyện B, tỉnh Bắc Ninh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm đã trình bày và các tài liệu đã nêu tại cấp sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều giữ nguyên quan điểm như đã trình bày tại cấp sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán; Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Người khởi kiện và người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được thực hiện đầy đủ các quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 55, 56, 57, 58, việc ủy quyền tham gia tố tụng của đương sự được thực hiện theo quy định tại Điều 60 Luật TTHC.

Căn cứ Điều 3, Điều 30; khoản 1 Điều 32; khoản 1 Điều 241, khoản 1 Điều 349 Luật TTHC, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí.

Bác kháng cáo của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn B, để giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 12/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng quy định của pháp luật.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa phúc thẩm và nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia tại phiên tòa phúc thẩm;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

[1].Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn B trong hạn luật định, phù hợp với quy định nên được chấp nhận để xét.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Người khởi kiện và là người kháng cáo vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Người bị kiện và người liên quan vắng mặt đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 4 Điều 225 xét xử vắng mặt họ theo quy định.

[2] Về nội dung, xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn B:

Tại bản án sơ thẩm đã xem xét tính hợp pháp của Quyết định số 918/QĐ- UBND ngày 30/9/2021 của UBND huyện B về việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B và Quyết định số 919/QĐ- UBND ngày 30/9/2021 của UBND huyện B về việc phê duyệt phương án việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B:

Về hình thức và thẩm quyền ban hành: Quyết định số 918/QĐ- UBND và Quyết định số 919/QĐ- UBND của UBND huyện B được ban hành theo quy định đúng thẩm quyền, hình thức văn bản theo quy định khoản 2 Điều 66 Luật đất đai và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Về trình tự thủ tục ban hành:UBND huyện B ban hành quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB là đúng trình tự thủ tục quy định tại Điều 69 Luật đất đai năm 2013; Điều 17 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất lad đều đã đúng các quy định của pháp luật.

Về nội dung khởi kiện không đồng ý việc thu hồi đất của ông Nguyễn Văn B, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định: Theo Quyết định số 918/QĐ-UBND và Quyết định số 919/QĐ-UBND, gia đình ông Nguyễn Văn B bị thu hồi tổng diện tích 200 m2 đất nông nghiệp giao lâu dài; tổng số tiền bồi thường hỗ trợ là: 87.800.000 đồng. Gia đình ông không đồng ý nhận tiền bồi thường hỗ trợ và đề nghị không thu hồi diện tích đất nông nghiệp để gia đình ông giữ lại đất canh tác. Đây là dự án đầu tư xây dựng bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất khu nhà ở để đấu giá quyền sử dụng đất tại thôn B, xã B, huyện B đã được HĐND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt theo Nghị quyết số 310/NQ-HĐND ngày 11/12/2020 về việc thông qua danh mục dự án chuyển mục đích sử dụng dưới 10ha đất trồng lúa, 20ha đất rừng; dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng năm 2021 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Dự án này thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng theo quy định tại theo điểm d khoản 3 Điều 62 Luật đất đai 2013 nên giá bồi thường, hỗ trợ được áp dụng theo quy định của UBND tỉnh Bắc Ninh tại Quyết định 19/2020/QĐ-UBND ngày 30/12/2020 của UBND tỉnh Bắc Ninh là đúng quy định về giá bồi thường, hỗ trợ đối với gia đình ông Bình là đúng quy định của pháp luật đã được cư quan có thẩm quyền phê duyệt; trình tự thủ tục thu hồi đất đã được thực hiện theo đúng quy định pháp luật. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B không được chấp nhận.

Do việc thực hiện thu nhồi đất đã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định nên đối với yêu cầu UBND xã B bồi thường số tiền 1.800.000 đồng do không cấy lúa được từ khi có quyết định thu hồi đất. Mặt khác, đại diện UBND xã B cũng xác định không hề có việc ngăn cản các hộ dân canh tác. Khu vực này hiện này chưa bồi thường cho các hộ có đất thu hồi xong, đến nay UBND xã chưa san lấp mặt bằng thi công nên ruộng vẫn còn nguyên vẹn. Do đó, yêu cầu bồi thường của ông Bình là không có cơ sở.

Vì vậy tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B là có căn cứ. Nay không có thêm tài liệu, chứng cứ gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn B.

[3]. Về án phí: Kháng cáo của ông Nguyễn Văn B không được chấp nhận nên phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 241 Bộ luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1]. Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn B; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

[2]. Về án phí: ông Nguyễn Văn B phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm. Đối trừ số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000072 ngày 16/9/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh, do ông Nguyễn Văn B nộp.

[3] Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về yêu cầu hủy quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường số 203/2023/HC-PT

Số hiệu:203/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 29/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về