TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 543/2022/DSPT NGÀY 14/12/2022 VỀ YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG CÔNG CHỨNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 14/12/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 118/2021/TLPT - DS ngày 17/3/2021 về: “Yêu cầu hủy hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 22/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 501/2022/QĐ-PT ngày 24/11/2022; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đàm Văn Ph; sinh năm: 1948; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có mặt tại phiên tòa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có Luật sư Nguyễn Văn N – thuộc Công ty Luật Hưng N – thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.
Địa chỉ liên hệ : Nhà số 14 N2, ngõ 90, đường Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Ông Đàm Văn M; sinh năm: 1960; địa chỉ: Thôn 7, xã Thượng Mỗ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị Đ; sinh năm: 1950; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Đ là ông Đàm Văn Ph; sinh năm: 1948 (Theo giấy uỷ quyền ngày 12/6/2021, số công chứng 4070 tại Văn phòng công chứng Quốc Dân); địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có mặt tại phiên tòa.
3.2. Văn phòng công chứng Vũ N
Địa chỉ: Số 158 phố Tây S, thị trấn P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật là bà Vũ N – chức vụ: Trưởng văn phòng; có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Ông Đàm Văn Ph là nguyên đơn và bà Nguyễn Thị Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2019 và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn ông Đàm Văn Ph trình bày:
Năm 1973 tôi và vợ là bà Nguyễn Thị Đ có mua của ông Nguyễn Công Đ thửa đất ở tổng diện tích 563m2 tại thôn 7 xã Thượng Mỗ, huyện Đ, thành phố Hà Nội; trong đó có 168m2 đất thổ cư, 80m2 đất ao được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn lại 315m2 đất vườn chỉ có tên trong sổ địa chính.
Tháng 3 năm 1999 vợ tôi và Ông M có viết tay giấy chuyển nhượng 168m2 đất thổ cư và 80m2 đất ao nói trên cho Ông M. Ông M đưa cho vợ tôi 8.000.000 đồng và tự viết thêm vào giấy chuyển nhượng cả phần diện tích 240m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng sau đó và bị Tòa án nhân dân huyện Đ và Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây tuyên Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất vô hiệu, tuyên bồi thường thiệt hại và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Năm 2011 tôi và con trai tôi có chặt bưởi nhà Ông M trồng trên đất nhà tôi nên bị Công an huyện Đ truy tố về tội Huỷ hoại tài sản. Ông M có gọi tôi đến để họp gia đình và ép tôi chuyển nhượng diện tích 168m2 và 80m2 đất ao cho Ông M với số tiền là 100.000.000 đồng thì Ông M hứa sẽ miễn truy tố. Ngày 5/1/2012 tôi và vợ tôi Nguyễn Thị Đ đến Văn phòng công chứng Đ, nay là Văn phòng công chứng Vũ N để công chứng chuyển nhượng diện tích đất nói trên. Tuy nhiên tôi không nhận được tiền của Ông M và hai bố con tôi vẫn bị truy tố theo quy định của pháp luật. Nay tôi làm đơn này đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng tôi và Ông M vô hiệu, buộc Ông M phải bồi thường cho vợ chồng tôi số tiền 1.540.800.000 đồng (Một tỷ năm trăm linh tư triệu tám trăm nghìn đồng) trong việc đi lại và phá nhà cấp 4, cây cối trên đất của tôi.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông P: Nhất trí với lời khai của ông P. Ngày 15/8/2022 luật sư Nguyễn Văn N có đơn đề nghị triệu tập bà Đỗ Thị B, ông Đàm Văn V, ông Đàm Văn H, ông Đàm Văn L, ông Đàm Văn M, ông Đàm Văn Th, ông Đàm Văn Th và ông Nguyễn Duy Tr – Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Thượng Mỗ để tiến hành lấy lời khai.
Tại bản tự khai và các lời khai tại Tòa án bị đơn ông Đàm Văn M trình bày:
Năm 1999 tôi và ông P, bà Đ có ký Hợp đồng chuyển nhượng tại thửa đất 197b, tờ bản đồ số 1, tổng diện tích là 587m2, trong đó, diện tích 168m2 đất thổ cư, 80m2 đất ao và 339m2 đất vườn. Nhưng sau đó bị Tòa án nhân dân huyện Đ và Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây hủy Hợp đồng chuyển nhượng, bồi thường thiệt hại và án phí theo quy định của Nhà nước. Sau đó ông P cho rằng không bán đất cho tôi mà chỉ cho thuê. Chính vì thế, ông P và con cái ông P đến đất phá hết cây cối của tôi và 10m tường rào. Ông P và con ông P bị truy tố hình sự về tội Hủy hoại tài sản. Sau đó, ông P biết sai nên xin tôi làm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên cho tôi. Ông P đến Uỷ ban nhân dân xã Thượng Mỗ xin giao lại toàn bộ quyền sử dụng đất trên cho tôi sử dụng. Ông P và mẹ tôi có đề nghị và yêu cầu tôi đi làm hợp đồng công chứng chuyển nhượng thửa đất nêu trên.
Do đó, ngày 05/01/2012 tại Văn phòng công chứng Đ, nay là Văn phòng công chứng Vũ N tôi, ông P và bà Đ có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Ông P ký Hợp đồng chuyển nhượng cho tôi hoàn toàn tự nguyện. Số tiền 100.000.000 đồng tôi đã trả đầy đủ, việc trả tiền không có giấy tờ gì, tôi chuyển tiền xong mới ký Hợp đồng chuyển nhượng. Nay ông P có đơn như vậy, tôi đề nghị bác toàn bộ đơn khởi kiện, xác định thửa đất trên là của tôi. Vì tôi đã nộp thuế và làm đầy đủ thủ tục để sang tên thửa đất, nhưng đến nay chưa được cấp sổ.
Tại bản tự khai người liên quan bà Nguyễn Thị Đ nhất trí với ý kiến và yêu cầu của ông Đàm Văn Ph.
Tại bản tự khai bà Vũ N đại diện theo pháp luật của Văn Phòng công chứng Vũ N trình bày:
- Về tư cách pháp nhân: Văn phòng công chứng Vũ N có đầy đủ quyết định thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Về trình tự, thủ tục công chứng Hợp đồng: Ngày 5/1/2012 Văn phòng công chứng Đ nhận được phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại trụ sở do ông Đàm Văn M ký kèm theo các giấy tờ sau: chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu của ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ; Chứng minh thư, sổ hộ khẩu của ông Đàm Văn M; Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất số 990 GCN/RĐ do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 25/5/1988 mang tên ông Đàm Văn Ph.
Xét thấy hồ sơ do khách hàng cung cấp phù hợp với quy định của pháp luật về công chứng nên Văn phòng công chứng Đ đã tiến hành các bước để soạn thảo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nội dung theo yêu cầu của khách hàng.
Sau khi được giải thích nội dung, hậu quả pháp lý của việc giao kết Hợp đồng và tự đọc Hợp đồng, ông Đàm Văn Ph và bà Nguyễn Thị Đ, ông Đàm Văn M đồng ý với toàn bộ nội dung Hợp đồng, các bên đã điểm chỉ và ký vào Hợp đồng chuyển nhượng theo thủ tục công chứng thông thường.
Về việc khởi kiện của ông Đàm Văn Ph, Văn phòng công chứng Đ, nay là Văn phòng công chứng Vũ N đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Văn phòng công chứng Vũ N có đơn xin xét xử vắng mặt.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 12/9/2022 những người làm chứng: Ông Đàm Văn M, ông Đàm Văn H, ông Đàm Văn L, ông Đàm Văn V cùng trình bày: Chúng tôi là anh em ruột và anh họ của ông P và Ông M. Ngày 27/12/2011 gia đình chúng tôi có họp gia đình hay không thì chúng tôi không nhớ và với nội dung T giải quyết mẫu thuẫn tranh chấp đất đai giữa ông Đàm Văn Ph và ông Đàm Văn M với các điều kiện giữa ông P và Ông M thì chúng tôi không nắm được. Nội dung biên bản phiên họp gia đình ngày 27/12/2011 như sau: Ông P phải làm thủ tục công chứng đất đai theo bản án đã xử ngày 26/9/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây giao lại toàn bộ khối tài sản đã ghi trong bản án cho Ông M ở và sử dụng. Từ nay ông P không được tranh chấp đất đai với Ông M nữa. Ông M phải làm bảo lãnh miễn truy tố cho ông P và các con ông P. Ông M phải chịu phí tổn công chứng đất đai và những phí tổn khác. Chúng tôi không chứng kiến và cũng không ký vào biên bản họp gia đình. Việc ông P có chuyển nhượng đất cho Ông M hay không chúng tôi không biết.
Nay ông P có đơn khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng công chứng giữa ông P và Ông M ngày 5/1/2012 thì đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã xử và quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đàm Văn Ph về việc đề nghị Toà án tuyên huỷ Hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 21/2012/HĐCC ngày 5/1/2012 của Văn phòng công chứng Vũ N.
Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 26/9/2022, ông Đàm Văn Ph là nguyên đơn làm đơn kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét hủy bản án sơ thẩm số 22/2022/DS- ST ngày 16/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Ngày 05/10/2022, bà Nguyễn Thị Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm đơn kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét sữa bản án sơ thẩm hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 05/01/2012 gữa vơ chồng bà với ông Đàm Văn M.
Tại phiên tòa hôm nay:
Nguyên đơn là ông Đàm Văn Ph trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư N trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn và đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm số 22/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Nguyên đơn là ông Đàm Văn Ph T với lời trình bày của Luật sư N.
Bị đơn là ông Đàm Văn M trình bày ý kiến không T với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 22/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Đ T với lời trình bày của nguyên đơn là ông Đàm Văn Ph.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa 22/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng và hình thức:
Đây là vụ kiện yêu cầu Huỷ hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đàm Văn Ph với ông Đàm Văn M có địa chỉ tại thôn 7, xã Thượng Mỗ, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội theo quy định tại Điều 26, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Vắng mặt người liên quan là Văn phòng công chứng Vũ N, ông Đàm Văn M, ông Đàm Văn H, ông Đàm Văn V. Xét thấy bà Nhàn – đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng có đơn xin vắng mặt, các đương sự khác có đầy đủ lời khai tại Toà án nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên là có căn.
Tại phiên tòa ngày hôm này các đương sự không xuất trình thêm được tài liệu chứng cứ gì mới.
Hội đồng xét xử xét thấy giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cấp cho ông Đàm Văn Ph ngày 25/5/1988 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội là cấp cho ông Đàm Văn Ph không phải là cấp cho hộ gia đình ông P nên những người con của ông Đàm Văn Ph là anh Đàm Văn Th, chị Đàm Thị Hòa, anh Đàm Văn Lực không phải là những người được cấp đất; hiện nay những người này cùng không ở trên đất đang có tranh chấp nên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người này vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ.
Đơn kháng cáo của ông Đàm Văn Ph là nguyên đơn và bà Nguyễn Thị Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nộp trong hạn luật định nên được xác định là kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của ông Đàm Văn Ph và bà Nguyễn Thị Đ
2.1. Xét đề nghị Toà án tuyên huỷ Hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 21/2012/HĐCC ngày 5/1/2012 của Văn phòng công chứng Vũ N.
Ngày 5/1/2012 Văn phòng công chứng Đ (nay là văn phòng công chứng Vũ N) nhận được phiếu yêu cầu công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại trụ sở của ông Đàm Văn M. Văn phòng công chứng Vũ N đã cử Công chứng viên Dương Đình Thành tiến hành công chứng thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại trụ sở Văn phòng công chứng, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập tại Văn phòng công chứng Đ có số công chứng 21/2012/HĐCN, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD thể hiện ông Đàm Văn Ph cùng vợ là bà Nguyễn Thị Đ đồng ý chuyển nhượng cho ông Đàm Văn M quyền sử dụng 248m2 (168m2 đất ở và 80m2 đất ao) đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 990 GCN/RĐ ngày 25/5/1988 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội thuộc tờ bản đồ số 1, thửa số 197b, xứ đồng Trung Thành, xã Thượng Mỗ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Về hình thức: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên được lập thành văn bản có công chứng. Tại thời điểm ký kết hợp đồng ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ và ông Đàm Văn M là người đủ năng lực hành vi dân sự đã xác nhận vào văn bản công chứng. Ông P cũng thừa nhận chữ ký trong Hợp đồng chuyển nhượng đúng là của ông với bà Định. Khi đến văn phòng công chứng ông P và bà Đ không thể hiện có dấu hiệu bị ép buộc hay cưỡng ép, các bên đồng ý với quy trình công chứng, chứng thực nên đã ký vào Hợp đồng chuyển nhượng.
Mặt khác, Văn phòng công chứng Vũ N được thành lập ngày 11/8/2011 có chức năng theo luật công chứng năm 2014. Công chứng viên Dương Đình Thành có quyết định bổ nhiệm công chứng ngày 15/9/2010. Như vậy, Văn bản công chứng số 21/2012/HĐCC ngày 5/1/2012 của Văn Phòng đã được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 44, 46 và 59 Luật công chứng.
Theo các quy định tại Điều 450, Điều 697 Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều 450 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản có công chứng chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Điều 697 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
Như vậy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập tại Văn phòng công chứng Đ có số công chứng 21/2012/HĐCN, quyển số 01/TP/CC- SCC/HĐGD về hình thức là hợp pháp.
Về nội dung: Đối với lý do ông Đàm Văn Ph là nguyên đơn đề nghị huỷ Hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là bị cưỡng ép, vi phạm điều cấm của pháp luật thể hiện tại biên bản họp gia đình ngày 27/12/2011; theo các đương sự trình bày trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng các bên có họp gia đình, ông P cho rằng các bên đã thoả thuận ông P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Ông M thì Ông M sẽ miễn truy tố cho bố con ông P nhưng bố con ông P vẫn bị truy tố nên việc chuyển nhượng Hợp đồng là bị ép buộc và vi phạm điều cấm của pháp luật. Tại phiên Toà cấp sơ thẩm; những người làm chứng là ông Long, ông Thuận xác nhận có được mời đến nhà để tham gia họp gia đình. Ông Long khẳng định mẹ ông đã gọi các con đến họp gia đình, sau khi T nội dung của biên bản mẹ ông và các anh em đều vui vẻ ký vào biên bản, không có sự việc bị ép buộc như ông P trình bày. Ngoài ra, đại diện Uỷ ban nhân dân xã Thượng Mỗ ông Nguyễn Duy Tr cũng xác nhận các bên ký vào biên bản họp gia đình đến trụ sở UBND xã Thượng Mỗ xin xác nhận đều vui vẻ, thoải mái không thấy ai trình bầy mình phải ký vào biên bản thỏa thuận. Theo các quy định của pháp luật thì hành vi hủy hoại tài sản không phải là tội danh khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nên Hội đồng xét xử có căn cứ để xác định việc ông P cho rằng bị ép buộc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không có căn cứ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên có nội dung và các điều khoản quy định cụ thể rõ ràng; nội dung các bên thỏa thuận trong hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo các quy định tại Điều 401, Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005 hợp đồng chuyển nhượng nêu trên về nội dung là hợp pháp.
Trong hợp đồng chuyển nhượng nêu trên tại Điều 2 giá trị chuyển nhượng và phương thức thanh toán có quy định:
“1. Hai bên tự thỏa thuận giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên tại Điều 1 của Hợp đồng là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng Việt Nam).
2. Phương thức thanh toán tiền mặt.
3. Việc thanh toán số tiền nêu trên tại Khoản 1 Điều này do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiêm trước pháp luật.”.
Hội đồng xét xử xét thấy: Đối tượng chuyển nhượng của hợp đồng nêu trên là quyền sử dụng 248m2 (168m2 đất ở và 80m2 đất ao) đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 990 GCN/RĐ ngày 25/5/1988 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội thuộc tờ bản đồ số 1, thửa số 197b, xứ đồng Trung Thành, xã Thượng Mỗ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, hiện nay đang có tranh chấp giữa các đương sự. Theo bản án dân sự phúc thẩm số 96/DSPT ngày 26/9/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây thể hiện: Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ và ông Đàm Văn M vô hiệu; diện tích nhà đất đang tranh chấp do Ông M đang quản lý là của ông P; ông P phải thanh toán cho Ông M số tiền 135.540.000 đồng; các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện cả hai bên đương sự đều không có đơn yêu cầu thi hành án, nên theo quy định tại điều 30, 36 của Luật Thi hành án các đương sự không còn quyền yêu cầu thi hành án. Hội đồng xét xử xác định nhà đất vẫn đang do Ông M quản lý, ông P chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền cho Ông M. Đến ngày 05/1/2012, ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ và ông Đàm Văn M tiếp tục ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập tại Văn phòng công chứng Đ có số công chứng 21/2012/HĐCN, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD với đối tượng chuyển nhượng nêu trên. Trong quá trình giải quyết vụ án qua các tại liệu, chứng cứ có trong hồ sơ do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập thể hiện:
Tại đơn đề nghị ngày 25/12/2011 của ông P và vợ là bà Đ gửi Ủy ban nhân dân xã Thượng Mỗ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ xin tự nguyện giao tài sản là nhà đất đang tranh chấp cho bố con Ông M toàn quyền sử dụng và không đòi hỏi bất cứ quyền lợi gì, bên dưới đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Thượng Mỗ.
Tại biên bản họp gia đình ngày 27/12/2011 thể hiện: ông P phải làm thủ tục công chứng bàn giao nhà đất và Ông M phải làm bảo lãnh miễn truy tố cho ông P và các con ông P phía dưới Ủy ban nhân dân xã Thượng Mỗ xác nhận chữ ký của những người ký còn không xác nhận nội dung .
Từ những phân tích trên có căn cứ xác định Ông M đã phải mua nhà đất đang tranh chấp 2 lần: Lần 1 từ năm 1999, đã được giải quyết bằng bản án dân sự phúc thẩm năm 2005, đến năm 2011 ông P đã tự nguyện bàn giao tài sản cho Ông M. Lần thứ 2 là ngày 05/01/2012 với giá 100 triệu đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông P trình bày chưa nhận được số tiền này, Ông M không xuất trình được các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho việc thanh toán số tiền nêu trên; nên để giải quyết triệt để vụ án Hội đồng xét xử thấy cần buộc ông Đàm Văn M phải thanh toán cho ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ số tiền 100.000.000 đồng.
Theo quy định của Khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo quy định tại Quyết định 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm, có hiệu lực từ 01/12/2010.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 7 của Hợp đồng chuyển nhượng nêu trên có nội dung: “…Hợp đồng này có hiệu lực kể từ ngày được công chứng…”; hợp đồng trên được công chứng ngày 05/01/2012; như vậy số tiền lãi chậm trả trong vụ án được tính như sau: 100.000.000 đồng x 9%/ 1năm x thời gian từ ngày 06/01/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 16/9/2022 = 96.312.328.000 đồng. Như vậy, ông Đàm Văn M phải thanh toán cho ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ số tiền 100.000.000 đồng + 96.312.328.000 đồng = 196.312.328.000 đồng Hội đồng xét xử xem xét sửa án sơ thẩm ở nội dung này.
2.2. Xét yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại 1.540.800.000đ của ông P: Như đã phân tích ở trên đối với yêu cầu về phá nhà cửa đã được giải quyết trong bản án dân sự phúc thẩm số 96/DSPT ngày 26/9/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây, bản án đã có hiệu lực pháp luật, nên không có căn cứ để xem xét lại. Còn đối với cây cối ông P yêu cầu, ông P không xuất trình được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của ông P là có căn cứ.
Như vậy phía nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng không đưa ra được các tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nên không có căn cứ để chấp nhận; Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm như nội dung phân tích ở trên.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Do ông Đàm Văn Ph, ông Đàm Văn M là người cao tuổi nên thuộc trường hợp miễn nộp án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên các đương sự không phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 308; Điều 147; Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Khoản 2 Điều 305, các Điều 401, Điều 402, Điều 450, Điều 697 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Các Điều 44, Điều 46 và Điều 59 Luật công chứng 2014;
- Quyết định 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam;
- Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử :
1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 22/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Đan Phương và quyết định cụ thể như sau:
1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đàm Văn Ph về việc đề nghị Toà án tuyên huỷ Hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 21/2012/HĐCC ngày 05/01/2012 của Văn phòng công chứng Vũ N.
1.2. Ông Đàm Văn M phải thanh toán cho ông Đàm Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ số tiền 196.312.328 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.3. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn là ông Đàm Văn Ph đối với bị đơn là ông Đàm Văn M.
3. Về án phí:
3.1. Án phí sơ thẩm:
Ông Đàm Văn Ph, ông Đàm Văn M được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho ông Đàm Văn Ph số tiền 300.000 đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2018/ 0014340 ngày 17/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa tuyên án.
Bản án về yêu cầu hủy hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 543/2022/DSPT
Số hiệu: | 543/2022/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về