Bản án về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 77/2023/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 77/2023/HC-ST NGÀY 10/07/2023 VỀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 10/7/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 55/2023/TLST-HC ngày 09 tháng 3 năm 2023 về việc “Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 65/2023/QĐXXST-HC ngày 6 tháng 6 năm 2023, giữa:

1. Người khởi kiện: Ông Trần Văn M, sinh năm 1958; Địa chỉ: Số A lô B, tỉnh lộ 853B, ấp A, xã M, huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Võ Hòa T, sinh năm: 1984; Địa chỉ: Ấp F, xã N, huyện B, tỉnh Long An, là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện. (Văn bản ủy quyền ngày 26/7/2022)

 2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê Thành N – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An, là người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện B. (Văn bản ủy quyền số 427/UQ-UBND ngày 20/3/2023 và Văn bản thay đổi người tham gia tố tụng số 5878/UBND-VP ngày 25/5/2023)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Trần Văn H – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B, tỉnh Long An. (Văn bản cử người bảo vệ số 2866/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 20/3/2023)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Kiều Thanh T1, sinh năm: 1972; Địa chỉ: Số C Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An (Ông T, ông H có mặt; Ông N và ông T1 đều có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, người khởi kiện- ông Trần Văn M do ông Võ Hòa T đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ông Trần Văn M là người trực tiếp quản lý sử dụng diện tích khoảng 864m2 thuộc thửa 295, tờ bản đồ số 5 (tọa lạc xã T, huyện B, tỉnh Long An) từ năm 1980 cho đến nay. Tuy nhiên vào năm 2022, khi ông M đi đăng ký kê khai thì biết được thửa 295 đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B194512 ngày 15/11/1996 cho bà Trần Thị L gồm nhiều thửa, trong đó có thửa số 295 mà ông M đang sử dụng. Ông M khiếu nại và UBND huyện B ban hành Văn bản số 1387/UBND-VP ngày 09/02/2022 xác định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L thửa 295 là không đúng đối tượng. Tuy nhiên, do giấy đã qua chuyển nhượng và đăng ký biến động sang tên ông Kiều Thanh T1 năm 2008 nên UBND huyện B hướng dẫn ông M khởi kiện tại Tòa án.

Do đó, ông Trần Văn M khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 194512 do UBND huyện B cấp ngày 15/11/1996 cho bà Trần Thị L (cập nhật biến động sang tên ông Kiều Thanh T1 năm 2008).

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND huyện B-Ông Trần Văn H trình bày:

UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B194512 ngày 15/11/1996 cho bà Trần Thị L gồm nhiều thửa, trong đó có thửa số 295 mà ông M đang sử dụng từ năm 1996. Việc cấp giấy cho bà L là nhầm lẫn do cấp đại trà, theo kê khai, không đo đạc và kiểm tra nên cấp không đúng đối tượng sử dụng đất. Tuy nhiên, do Giấy đã qua chuyển nhượng và đăng ký biến động sang tên cho ông Kiều Thanh T1 năm 2008 nên đề nghị hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật. UBND huyện B sẽ chấp hành theo bản án của Tòa án để giải quyết việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 295 cho ông M.

* Tại đơn trình bày ngày 21/6/2023, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Ông Kiều Thanh T1 trình bày:

Ông Trần Văn M khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B194512 ngày 15/11/1996 cho bà Trần Thị L (cập nhật biến động sang tên ông Kiều Thanh T1 năm 2008). Ông T1 đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn M, bởi vì ông M là người sử dụng thửa 295 từ năm 1980 đến nay.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An xác định:

Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý vụ án đúng quy định pháp luật. Trong quá trình giải quyết đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Các đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Về nội dung: UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B194512 ngày 15/11/1996 cho bà Trần Thị L gồm nhiều thửa, trong đó có thửa số 295 mà ông M đang sử dụng từ năm 1980 đến nay. Việc cấp giấy cho bà L là nhầm lẫn do cấp đại trà, theo kê khai, không đo đạc và kiểm tra nên cấp không đúng đối tượng sử dụng đất. Các bên đương sự đều thừa nhận việc cấp nhầm và đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn M. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự; sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện B cấp là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của cơ quan quản lý hành chính nhà nước nên thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính. Do người bị kiện là UBND cấp huyện nên căn cứ vào khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, do UBND huyện B và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xin vắng mặt suốt quá trình tố tụng; người khởi kiện có đơn không yêu cầu tổ chức đối thoại nên vụ án thuộc trường hợp không thể tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 Luật Tố tụng hành chính. Do người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 158 Luật Tố tụng hành chính. Bà Trần Thị L đã chết và đã chuyển nhượng cho ông T1 thửa 295 từ năm 2008 nên không cần đưa những người thừa kế của bà L vào tham gia tố tụng trong vụ án này.

[3]. Về thời hiệu khởi kiện: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Trần Thị L được cấp năm 1996 nhưng đến ngày 09/02/2022, UBND huyện B mới có văn bản xác định cấp không đúng đối tượng. Do đó, ngày 25/11/2022, ông Trần Văn M nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An là trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày biết được quyết định hành chính nên còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2, Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[4]. Về thẩm quyền và trình tự cấp giấy, xét thấy: Ngày 15/11/1996 UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trần thị L1 gồm nhiều thửa, trong đó có thửa 295, tờ bản đồ số 5, tọa lạc xã T là trên cơ sở cấp lần đầu.

Do đó, UBND huyện B cấp giấy cho bà L1 năm 1996 là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại Điều 24 và Điều 36 Luật Đất đai 1993.

[5]. Về nội dung xét thấy: Ông Võ Hòa T đại diện theo ủy quyền của ông M xác định ông Trần Văn M là người sử dụng và quản lý thửa số 295 từ năm 1980 đến nay. Tình tiết này đã được UBND huyện B, ông Kiều Thanh T1 và những người trong gia đình thân tộc ông T1 (ông Kiều Văn T2, bà Kiều Thị Ngọc D, bà Kiều Thị L2, bà Kiều Mỹ N1 và ông Nguyễn Văn L3) thừa nhận nên không cần phải chứng minh. UBND huyện B và ông T1 đều thống nhất theo yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà L1 đối với thửa số 295 (cập nhật biến động sang tên ông Kiều Thanh T1 đối với thửa số 295 năm 2008) là hoàn toàn phù hợp pháp luật do cấp không đúng đối tượng sử dụng.

[6]. Xét thấy, người khởi kiện Trần Văn M do ông Võ Hòa T đại diện theo ủy quyền khởi kiện có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính của UBND huyện B. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đề nghị chấp nhận khởi kiện của người khởi kiện là có căn cứ.

[7]. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B194512 ngày 15/11/1996 do UBND huyện B cấp cho bà Trần Thị L (cập nhật biến động sang tên ông Kiều Thanh T1 năm 2008) đối với thửa 295, diện tích 864m2, tọa lạc xã T, huyện B, tỉnh Long An.

[8]. Ông Trần Văn M được quyền đăng ký kê khai để được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 295, tọa lạc xã T, huyện B, tỉnh Long An đúng theo diện tích thực tế ông M sử dụng theo quy định của Luật Đất đai.

[9]. Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện B phải nộp 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 165 và Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Điều 166 và Điều 106 Luật đất đai năm 2013.

Áp dụng Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn M về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân huyện B.

Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B194512 ngày 15/11/1996 do UBND huyện B cấp cho bà Trần Thị L (cập nhật biến động sang tên ông Kiều Thanh T1 năm 2008) đối với thửa 295, diện tích 864m2, tọa lạc xã T, huyện B, tỉnh Long An.

2. Ông Trần Văn M được quyền đăng ký kê khai để được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 295, tọa lạc xã T, huyện B, tỉnh Long An đúng theo diện tích thực tế ông M sử dụng theo quy định của Luật Đất đai.

3. Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện B phải nộp 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước 5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Toà án niêm yết bản sao bản án.

6. Về thi hành bản án: Bản án hành chính được thi hành theo các Điều 309, Điều 310 và Điều 312 Luật tố tụng hành chính.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 77/2023/HC-ST

Số hiệu:77/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 10/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về