Bản án về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 15/2022/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 15/2022/HC-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 06 và 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số: 15/2021/TLST-HC ngày 12 tháng 4 năm 2021 về việc “Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HC ngày 27 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2022/QĐST-HC ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, giữa các đương sự:

* Người khởi kiện: Ông Lê Văn H; địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Phạm Thái H – Văn phòng luật sư Phạm Thái H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa; địa chỉ: Đường Lý Thái Tổ, thôn Bãi Giếng 3, thị trấn Cam Đức, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Người bị kiện: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa.

Trụ sở: 14 Hoàng Hoa Thám, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo pháp luật của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn Đ, chức vụ: Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Tấn Đ, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C và bà Huỳnh Thị Hàn N, chức vụ: Tổ trưởng tổ Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận – Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đỗ T và bà Trần Thị M; địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ T: Ông Lê Quang H; địa chỉ: Thôn 4, xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình (Giấy ủy quyền số: 117, Quyển số 01 – SCT/CK,ĐC ngày 09/5/2022 của Phó Chủ tịch UBND xã A, huyện C và Biên bản lấy lời khai ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa). Có mặt.

- Ông Lê C và bà Nguyễn Thị T; địa chỉ: 19 B, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Ông Lê Trung H1; địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt. mặt.

- Bà Lê Thị Thu H; địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có - Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C; địa chỉ: Xã Đ, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo pháp luật của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C: Ông Nguyễn Tấn Đ, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C. Vắng mặt.

- Ủy ban nhân dân xã A, huyện C; địa chỉ: Xã A, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 16/10/2020, bản tự khai ngày 17/6/2021 và quá trình tố tụng, người khởi kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là Luật sư Phạm Thái Hòa trình bày:

Ông Lê Văn H là người sử dụng thửa đất trồng rừng sản xuất tọa lạc tại Thôn V, xã A, huyện C hơn 20 năm nay. Thửa đất này gồm hai phần: Một phần ông được cha là ông Lê Trung H1 chia cho hai anh em ông và ông Lê C mỗi người khoảng 02 sào (2.000m2) cách đây khoảng 20 năm, sau khi nhận phần diện tích đất này, ông tự khai hoang thêm 03 sào (3.000m2); một phần do cha ông tiếp tục tặng cho phần diện tích còn lại khoảng 1.500m2 vào năm 2019. Toàn bộ thửa đất của ông H có ranh giới rõ ràng, trên đất ông canh tác trồng xà cừ, xoài, keo và bạch đàn.

Năm 2020, ông H liên hệ Văn phòng đăng ký đất đai Khánh Hòa – Chi nhánh C tiến hành đo vẽ thửa đất để đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện một thửa đất (diện tích 4.000m2) của ông H đã được sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP 930983, số vào sổ cấp GCN: CS00186, ngày 18/12/2018, thửa số 12, tờ bản đồ 01, thôn V, xã A, huyện C, diện tích 8047m2 cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M (viết tắt là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186) và ông bị từ chối Hợp đồng đo đạc số 2960/TB- CNCL ngày 17/8/2020.

Ngày 18/8/2020, ông H có đơn gửi Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã A đề nghị giải quyết việc thửa đất của ông sử dụng đã bị cấp một phần cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M.

Ngày 08/10/2020, UBND xã A có Văn bản số 688/UBND trả lời đơn của ông H với nội dung: Phần diện tích đất ông đang sử dụng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M là một phần trong tổng thể diện tích 8047m2 thuộc thửa đất số 12, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại Thôn V, xã A, huyện C (viết tắt là Thửa đất số 12) do ông Đỗ T và bà Trần Thị M nhận chuyển nhượng của ông Lê C và bà Nguyễn Thị T từ năm 2018. Sau đó, ông H có yêu cầu ông Đỗ T, bà Trần Thị M tách thửa phần đất của ông đã bị cấp chồng lấn cho ông H nhưng họ không đồng ý.

Ủy ban nhân dân xã A cũng xác nhận là ranh giới thực tế phần diện tích đất ông sử dụng hơn 20 năm nay là ổn định không có tranh chấp nhưng ranh giới này nằm trong phần diện tích mà ông Đỗ T và bà Trần Thị M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186.

Theo trích đo địa chính thửa đất do Công ty TNHH Đo đạc và Dịch vụ địa chính Ninh Hòa lập theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 07/01/2022 thì phần diện tích đất ông H sử dụng (Phần B), diện tích 5617,8m2, trên thực địa có nhà tạm (chòi, lán), trồng cây xoài nhỏ và lớn, cây xà cừ lớn.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 có phần diện tích chồng lấn sang thửa đất ông H đang sử dụng là trái pháp luật, vì vậy, ông yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186.

* Tại văn bản số 768/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 04/3/2022 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa và quá trình tố tụng, người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày:

Ngày 28/5/2009, UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 707367; số vào sổ CGN: H00299 cho ông Lê C và bà Nguyễn Thị T đối với thửa đất số 12, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện C, diện tích 8047m2, mục đích sử dụng đất: đất có rừng trồng sản xuất, thời hạn sử dụng đến tháng 05/2059, nguồn gốc sử dụng: Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299). Ông Lê C và bà Nguyễn Thị T chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng Công chứng Thuận An chứng nhận số 7544, quyển số 08/2018 TP/CC-SCC-HĐGD ngày 27/11/2018. Ngày 30/11/2018, ông T và bà M nộp hồ sơ đăng ký biến động quyền sử dụng đất tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện C (biên nhận hồ sơ số 1011802908). Ngày 18/12/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186.

Căn cứ Điều 188, Điều 191 Luật đất đai năm 2013. Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 17 Thông tư 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/05/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Căn cứ Điều 35 Quyết định số: 2314/QĐ-UBND ngày 10/8/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa về việc ban hành quy chế giải quyết thủ tục hành chính về đất đai liên quan đến hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M đúng theo quy định pháp luật.

* Tại văn bản số 1719/CNCL ngày 10/5/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C và quá trình tố tụng, người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Tấn Đ trình bày:

Ngày 28/5/2009, UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 cho ông Lê C và bà Nguyễn Thị T. Căn cứ xác nhận của UBND xã A ngày 27/12/2008 thì thửa đất số 12, tờ bản đồ số 01 được ông Lê C khai hoang năm 1998 (không có giấy tờ khai hoang). Ngày 27/11/2018, ông C và bà T chuyển nhượng thửa đất trên cho ông T và bà M, hợp đồng chuyển nhượng được Văn phòng Công chứng Thuận An chứng thực ngày 27/11/2018. Ngày 18/12/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 cho ông T và bà M.

Căn cứ Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ về cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp đất do hộ gia đình, cá nhân sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về sau. Căn cứ Điều 188 Luật đất đai năm 2013 về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 cho ông Lê C và bà Nguyễn Thị T và thủ tục chuyển nhượng, cấp đổi mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông Lê C cùng bà Nguyễn Thị T cho ông Đỗ T cùng bà Trần Thị M theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 là đúng quy định pháp luật.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 đã được thu hồi, bấm lỗ (hủy bỏ), không còn giá trị sử dụng trước khi phát hành Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186.

* Tại văn bản ý kiến ngày 19/4/2021 và quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ T, bà Trần Thị M và người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ T là ông Lê Quang H trình bày:

Ngày 27/11/2018, ông Đỗ T và bà Trần Thị M nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Lê C và bà Nguyễn Thị T thửa đất số 12, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện C, diện tích 8047m2, hình thức sử dụng: sử dụng riêng, mục đích sử dụng đất: đất có rừng trồng sản xuất, thời hạn sử dụng đến tháng 05/2059, nguồn gốc sử dụng: Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng Công chứng Thuận An chứng nhận số 7544, quyển số 08/2018 TP/CC-SCC-HĐGD. Ngày 30/11/2018, ông T và bà M nộp hồ sơ đăng ký biến động quyền sử dụng đất tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện C. Ngày 18/12/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 cho ông T và bà M. Ông T và bà M là người sử dụng đất được Nhà nước công nhận theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đồng ý với yêu cầu của người khởi kiện.

Do ông Thiện, bà M ở gần nhà ông C, bà T các bên tin tưởng nhau và do đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng nên ông T, bà M nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên giấy tờ, không xác định và không giao nhận ranh giới, trên đất có cây keo, bạch đàn trồng năm 2018 và 02 cây xà cừ.

* Tại bản tự khai ngày 07/7/2021 và biên bản lấy lời khai ngày 7/7/2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê C và bà Nguyễn Thị T trình bày: Cách đây khoảng 20 đến 25 năm, cha mẹ ông Lê C có cho một mảnh đất khoảng 2000m2 đến 3000m2 ở núi Hòn Khê để canh tác, sau đó ông, bà có khai hoang thêm khoảng 7000m2 đến 8000m2. Năm 2006, đoàn đo vẽ Vlap có đến đo vẽ diện tích đất miễn phí cho ông, bà. Năm 2009, ông, bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299. Phần đất trên, ông, bà sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai. Năm 2018, ông C và bà T chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M, về hợp đồng chuyển nhượng đất, giấy mua bán viết tay ông, bà không giữ. Về yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H, ông Lê C và bà Nguyễn Thị T không có ý kiến gì.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/6/2022, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Trung H1 trình bày: Nguồn gốc Thửa đất số 12 do ông Hòa khai hoang từ năm 1974, khi khai hoang đất không có ranh giới cụ thể; sau đó, ông có trồng xoài, bạch đàn, keo lá tròn và cho các con là Lê C, Lê Văn H mỗi người khoảng 2000m2 để canh tác sử dụng, khi cho đất không viết giấy và năm nào không nhớ rõ. Đến năm 2019, ông tiếp tục cho con là Lê Văn H 1500m2 đất, lúc này có viết giấy cho đất viết tay. Thửa đất số 12 ông H đang quản lý, sử dụng do ông cho một phần, còn một phần là do H mua từ người khác. Hiện nay, vợ chồng ông Lê Văn H và bà Lê Thị Thu H trực tiếp canh tác sử dụng thửa đất trên. Ông Hòa đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/6/2022 và quá trình tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Thu H trình bày: Bà H thống nhất với nội dung trình bày của chồng là ông Lê Văn H về Thửa đất số 12. Vợ chồng bà trực tiếp canh tác sử dụng đất từ năm 1999, trên đất có các cây xoài, xà cừ và cây keo, có nhiều cây lâu năm được trồng từ khi ông Lê Trung H1 quản lý đất. Trong quá trình bà sử dụng đất, ông Đỗ T, bà Trần Thị M chỉ chồng lấn về ranh giới thửa đất, không đến quản lý hay tranh chấp gì thửa đất của vợ chồng bà. Bà H thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H.

* Đối với UBND xã Cam An Nam (huyện C): Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của Luật tố tụng hành chính nhưng không có văn bản ghi ý kiến gửi cho Tòa án, không có người tham gia tố tụng nên không thu thập được ý kiến.

Kèm theo đơn khởi kiện, ý kiến người bị kiện, ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các đương sự đã nộp các tài liệu chứng cứ đã được công khai tại biên bản công khai chứng cứ và tại phiên tòa.

Toà án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng người bị kiện vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên yêu cầu không tiến hành đối thoại và đưa vụ án ra xét xử, nên việc đối thoại không thể thực hiện được. Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà mở phiên toà xét xử công khai để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa phát biểu tại phiên tòa:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Luật tố tụng hành chính về thụ lý vụ án, lập hồ sơ, thu thập chứng cứ, tiến hành đối thoại, tống đạt các văn bản tố tụng, các trình tự thủ tục về phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự, người tham gia tố tụng khác đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung: Yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Người bị kiện, người người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê C, ông Lê Trung H1 và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C có yêu cầu xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T và UBND xã A được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt. Căn cứ vào Điều 158 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[1.2] Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai, nên yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính.

[1.3] Trong năm 2020, ông Lê Văn H biết ông Đỗ T và bà Trần Thị M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186; ngày 16/10/2020, ông H có đơn khởi kiện là trong thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

[1.4] Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã thụ lý và đưa ra giải quyết vụ án hành chính là đúng thẩm quyền theo Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186, Hội đồng xét xử thấy:

[2.1] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng Thửa đất số 12:

Theo trình bày của ông Lê Trung H1 và Lê Văn H thì Thửa đất số 12 có nguồn gốc do ông Hòa khai hoang từ năm 1974, sau khi khai hoang, ông Hoà có trồng xoài, bạch đàn, keo lá tròn và cho các con là Lê C, Lê Văn H mỗi người khoảng 2000m2 để canh tác sử dụng, khi cho đất không viết giấy và cho năm nào không nhớ rõ nH trên 20 năm. Sau khi được ông Hòa cho đất, ông H khai hoang thêm 03 sào (3.000m2); năm 2019, ông Hòa tiếp tục cho Lê Văn H 1500m2 đất. Toàn bộ diện tích đất của ông H có ranh giới rõ ràng, trên đất ông canh tác trồng xà cừ, xoài, keo và bạch đàn.

Ông Lê C trình bày, cách đây khoảng 20 đến 25 năm, cha mẹ ông Lê C (ông Hòa) có cho một mảnh đất khoảng 2000m2 đến 3000m2 ở núi Hòn Khê để canh tác là không phù hợp với trình bày của ông Hòa (cho ông Cảnh 2000m2); ông C có khai hoang thêm khoảng 7000m2 đến 8000m2 nhưng không đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh, không được đương sự khác công nhận và ông C không tham gia phiên tòa nên không thể làm rõ được lời trình bày của ông C. Mặt khác, theo trình bày của ông C thì diện tích đất ông được cho và khai hoang thêm tổng cộng là 9000m2 đến 11000m2, nhưng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 thì diện tích đất được công nhận quyền sử dụng là 8047m2 trong đó có phần diện tích đất ông H cho rằng thuộc quyền sử dụng của ông.

Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 07/01/2022, Thửa đất số 12, phần ông H quản lý, sử dụng có nhiều cây xà cừ (khoảng 23 năm), cây xoài lớn khoảng 35 năm, xoài nhỏ khoảng 02 năm; Trên phần đất của ông Đỗ T và bà Trần Thị M nhận chuyển nhượng của ông Lê C và bà Nguyễn Thị T có nhiều cây keo trồng từ năm 2018.

Theo trích đo địa chính thửa đất do Công ty TNHH Đo đạc và Dịch vụ địa chính Ninh Hòa lập theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 07/01/2022, phần diện tích đất ông Đỗ T và bà Trần Thị M nhận chuyển nhượng của ông Lê C và bà Nguyễn Thị T (Phần A), diện tích 2429,2m2, trên thực địa có trồng cây bạch đàn (cây keo); phần diện tích đất ông Lê Văn H sử dụng (Phần B), diện tích 5617,8m2, trên thực địa có nhà tạm (chòi, lán), trồng cây xoài nhỏ và lớn, cây xà cừ lớn.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định Thửa đất số 12 ông Đỗ T và bà Trần Thị M sử dụng phần A, diện tích 2429,2m2 do nhận chuyển nhượng từ ông Lê C và bà Nguyễn Thị T; ông Lê Văn H và bà Lê Thị Thu H sử dụng phần B, diện tích 5617,8m2 do ông Lê Trung H1 tặng cho và khai hoang thêm.

[2.2] Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299: Theo đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 18/12/2008 của ông Lê C và bà Nguyễn Thị T, Thửa đất số 12, diện tích 8047m2 có nguồn gốc: “Tự khai phá năm 1998” là không đúng với nguồn gốc, diện tích đất mà ông H, ông Hòa và ông C đã trình bày như nhận định tại mục [2.1]. Đối với xác nhận của UBND xã A về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất: “Ông C tự khai phá năm 1998 trồng keo” trên cơ sở đó các cơ quan chứ năng đã đề xuất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 bao gồm cả diện tích đất mà ông H đã trồng cây xoài và cây xà cừ như nhận định tại mục số [2.1] là không phù hợp với thực tế. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 cấp cho ông Lê C và bà Nguyễn Thị T là không đúng thực tế, không đúng đối tượng sử dụng đất, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H và bà H. Do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 đã được thu hồi, bấm lỗ (hủy bỏ), không còn giá trị sử dụng trước khi phát hành Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186, không ai có yêu cầu xem xét nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186:

Ngày 27/11/2018, ông Đỗ T và bà Trần Thị M nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất Thửa đất số 12 (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299) của ông Lê C và bà Nguyễn Thị T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng Công chứng Thuận An chứng thực số 7544, quyển số 08/2018 TP/CC-SCC-HĐGD. Ngày 30/11/2018, ông T và bà M nộp hồ sơ đăng ký biến động quyền sử dụng đất tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện C. Ngày 18/12/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 cho ông T và bà M. Ông Thiện và bà M xác định do là người cùng địa phương với ông C và bà T nên ông, bà dựa vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 để nhận chuyển nhượng, trên đất nhận chuyển nhượng có cây keo và bạch đàn, không có xoài, xà cừ; không xác định và không giao nhận ranh giới; ông, bà không canh tác trên thửa đất đã mua.

Thửa đất số 12 ông Lê Văn H và bà Lê Thị Thu H là người trực tiếp quản lý, sử dụng với diện tích 5617,8m2; ông C và bà T chỉ sử dụng diện tích 2429,2m2 như đã nhận định tại mục [2.1] và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00299 là không đúng quy định của pháp luật như đã nhận định tại mục [2.1] nên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186 cho ông T và bà M đã xâm phạm quyền lợi hợp pháp của ông Lê Văn H và bà Lê Thị Thu H.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đỗ T và bà Trần Thị M, ông T và bà M có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng Công chứng Thuận An chứng thực số 7544, quyển số 08/2018 TP/CC-SCC-HĐGD để được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự.

Từ nhận định [2.1], [2.2] và [2.3], yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H là có căn cứ, nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Lê Văn H về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS00186.

[3] Về chi phí tố tụng và án phí:

[3.1] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Lê Văn H đã chi cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo vẽ và tự nguyện chịu các chi phí, không yêu cầu Tòa xem xét nên không xem xét giải quyết.

[3.2] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn H, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà cấp, nên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí sơ thẩm cho ông Lê Văn H.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Áp dụng Điều 97, 98, 99, 100 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP 930983, số vào sổ cấp GCN: CS00186, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cấp ngày 18/12/2018, đối với thửa số 12, tờ bản đồ 01, thôn V, xã A, huyện C, diện tích 8047m2 cho ông Đỗ T và bà Trần Thị M trú tại: Thôn V, xã A, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.

2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Lê Văn H đã chi cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo vẽ và tự nguyện chịu các chi phí, không yêu cầu Tòa xem xét nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí:

- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.

- Hoàn lại cho ông Lê Văn H 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2016/0001454 ngày 23/3/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hoà.

Các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng cáo đối với các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 15/2022/HC-ST

Số hiệu:15/2022/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về