Bản án về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất số 26/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 26/2024/DS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TRANH CHẤP VỀ YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CẢN TRỞ TRÁI PHÁP LUẬT QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 02 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 57/2023/TLST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2023 về việc “Tranh chấp về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 386/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Mai Văn T, nơi cư trú: Số nhà I, đường T, thành phố Q, tỉnh B. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Lê Thị L, nơi cư trú: Số nhà A, đường L, thành phố Q, tỉnh B, vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Chị Nguyễn Thị Xuân S, nơi cư trú: số nhà I, đường T, thành phố Q, tỉnh B. Có mặt.

3.2. Ông Trần Ngọc L1, nơi cư trú: số nhà E, đường T, phường Đ, thành phố Q, tỉnh B. Có mặt.

3.3. Ông Trần Ngọc M, nơi cư trú: Số nhà A, đường H, thành phố Q, tỉnh B. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của ông Trần Ngọc M: Anh Huỳnh Duy T1, nơi cư trú: số nhà A, đường N, thành phố Q, tỉnh B, là người đại diện theo ủy quyền (Hợp đồng ủy quyền ngày 06 tháng 3 năm 2023). Có mặt.

3.4. Ông Trần Ngọc L2, nơi cư trú: Số nhà B, đường N, phường N, thành phố Q, tỉnh B, vắng mặt.

3.5. Bà Trần Thị P1, nơi cư trú: Số nhà B, đường T, thị trấn D, huyện T, tỉnh B. Có mặt.

3.6. Bà Trần Thị H, nơi cư trú: Số nhà B, đường N, phường N, thành phố Q, tỉnh B. Có mặt.

3.7. Bà Trần Thị T2, nơi cư trú: Số nhà F, đường H, phường G, thành phố Q, tỉnh B. Vắng mặt.

3.8. Bà Trần Thị T3, nơi cư trú: Tổ D, khu phố E, phường Q, thành phố Q, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 01 năm 2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Mai Văn T trình bày:

Ngày 18-5-2002, vợ chồng ông Trần Đình H1 (chết năm 2010), bà Nguyễn Thị M1 (chết năm 2017) có lập Hợp đồng mua bán nhà cho anh gắn liền với phần đất ở diện tích 26m2 thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại số nhà B, đường N, thành phố Q, tỉnh B, có giới cận: Đông giáp đường N; Tây giáp nhà ông Trần Đình H1 (nay bà Trần Thị H ở); Nam giáp vách tường nhà ông Trần Ngọc M; Bắc giáp nhà ông Trần Ngọc L1; với giá tiền là 150.000.000 đồng. Hợp đồng mua bán nhà có xác nhận của Khu vực trưởng khu vực 8 và các hộ liền kề ký xác nhận, nhưng không có công chứng, chứng thực hợp pháp. Các bên đã giao nhận nhà, đất và tiền đầy đủ. Khi bên mua làm hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì bà Lê Thị L có đơn yêu cầu về việc giải quyết ngăn chặn đề ngày 20-6-2022 về việc yêu cầu dừng việc cấp giấy chứng nhận cho những hộ có liên quan đến thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14, trong đó có anh và ông Trần Ngọc M. Do đó, anh khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà L phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của anh đối với phần đất 26m2 thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14 nêu trên.

* Bị đơn bà Lê Thị L đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa để làm việc, không tham dự phiên tòa và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ. Tòa án cũng không lấy được lời khai của bà L.

* Tại bản khai đề ngày 11 tháng 7 năm 2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Xuân s trình bày: Chị và anh Mai Văn T kết hôn vào ngày 22-12-2004. Nhà số B, đường N, thành phố Q do anh Mai Văn T đứng tên mua của ông Trần Đình H1 và vợ là bà Nguyễn Thị M1 vào ngày 18-5-2002, diện tích là 26m2. Chồng chị mua trước khi cưới chị. Chồng chị có đưa chị xem Hợp đồng mua bán nhà và các giấy tờ có liên quan, có vợ chồng ông H1, bà M1 cùng các con Trần Ngọc M, Trần Ngọc L1 và có Khu vực trưởng khu vực 8 là ông Nguyễn Ngọc G ký tên, xác nhận, chị thấy là hợp lệ. Nay chị thống nhất như lời khai và yêu cầu khởi kiện của chồng chị.

* Tại bản khai đề ngày 17 tháng 10 năm 2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Ngọc M và người đại diện theo ủy quyền là anh Huỳnh Duy T1 thống nhất trình bày:

Nguyên thửa đất của cha mẹ ông là ông Trần Đình H1, bà Nguyễn Thị M1 tạo lập từ ngày 17-6-1970, được chính quyền cũ xác nhận, có tổng diện tích là 516m2. Sau đó, cha mẹ ông chuyển nhượng lại cho 03 hộ với các số thửa 358, 359, 360, tờ bản đồ số 14 còn lại thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14 với diện tích 244,5m2 cha mẹ ông cùng với 08 người con sinh sống trên thửa đất đó. Cha ông chết năm 2010, mẹ ông chết năm 2017, đều không để lại di chúc. Cha mẹ ông sinh được 08 người con gồm có: Trần Văn S1 (chết năm 2006), Trần Ngọc L1, Trần Thị P1, Trần Ngọc M, Trần Thị H, Trần Thị T2, Trần Ngọc L2, Trần Thị T3. Ngày 12-8-1997, bà Lê Thị L (vợ của ông Trần Văn S1) tự viết giấy tay xin cha mẹ ông một phần đất thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14 với diện tích 34m2, được cha mẹ ký cho và Khu vực trưởng ký xác nhận. Ngày 01-7-2001, cha mẹ ông phân chia tài sản bất động sản cho các con với diện tích rõ ràng và giới cận như trong bản phân chia. Ngày 13-3-2017, Ủy ban nhân dân thành phố Q có Thông báo thu hồi đất số 220/TB-UBND trong đó có thửa đất của ông H1, bà M1.

Ngày 18-5-2002, cha mẹ ông ký Hợp đồng mua bán nhà với anh Mai Văn T lô đất có giới cận rõ ràng với diện tích 26m2. Đến khi giải tỏa đường Trần Thị K nối dài, trong thời điểm giải tỏa đã có Thông báo thu hồi đất, bà L phối hợp với Ban giải phóng mặt bằng và Ủy ban nhân dân thành phố Q tự ý tách thửa cho bà L thành 01 thửa đất mới số 486, tờ bản đồ số 5, diện tích 67,5m2 đã xâm hại đến quyền lợi của anh, chị, em. Sau đó, ông khởi kiện hành chính ra Tòa án nhân dân tỉnh B đối với 02 Quyết định thu hồi đất số 3290/QĐ-UBND và 3291/QĐ-UBND ngày 22-5-2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Q. Bản án phúc thẩm số 76/2020/HC-PT ngày 24-12-2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã tuyên hủy Quyết định số 3290/QĐ-UBND (liên quan đến thửa đất số 486, tờ bản đồ số 5 của bà L), yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố Q ra quyết định thu hồi đất của ông H1, bà M1 cho tặng ông S1, bà L 34m2 hợp pháp. Đến ngày 28-5-2021, Ủy ban nhân dân thành phố Q ra Quyết định số 3674/QĐ-UBND về việc thu hồi Quyết định số 3290/QĐ-UBND. Ngoài ra, bà L không có chứng cứ, giấy tờ nào của thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14 mà viết đơn ngăn chặn xác nhận quyền sử dụng đất đối với ông T và các hộ liền kề.

07 anh, chị, em trong gia đình cam đoan và xác định Hợp đồng mua bán nhà ngày 18-5-2002 giữa ông H1, bà M1 và ông T là đúng sự thật. Trong Hợp đồng mua bán nhà với ông T có ghi giới cận phía Nam giáp tường nhà của ông Trần Ngọc M nên bà L tự giả mạo thẩm định cho rằng các loại giấy tờ: Bản phân chia tài sản bất động sản ngày 01-7-2001, Hợp đồng mua bán nhà ngày 18-5-2002, Giấy xác nhận nhà đất ngày 12-8-1997 và Giấy mua bán nhà ngày 17-6-1970 đều là giấy giả mạo. Bà L tự làm kết quả giám định lùi về năm 2002 khi ông S1 còn sống, ông đã đi thẩm định ở Công an tỉnh B rồi. Cha mẹ đã chia cho các con mỗi người một phần đất để xây dựng nhà ở. Sau khi Nhà nước thực hiện việc giải tỏa làm đường, gia đình bà L đã được bồi thường và nhận cấp đất tái định cư để ở, bà L không còn liên quan gì đến thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14. Bà L làm đơn ngăn chặn không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những người đang ở trên thửa đất này, trong đó có ông và anh T là không đúng quy định. Vì vậy, ông thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông T, bác bỏ đơn ngăn chặn của bà L, để ông và T được tiến hành làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

* Tại các bản khai đề cùng ngày 17 tháng 10 năm 2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Ngọc L1, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị H, bà Trần Thị T2, ông Trần Ngọc L2, bà Trần Thị T3 thống nhất trình bày: Các ông, bà thống nhất như lời trình bày của ông Trần Ngọc M và thống nhất với yêu cầu khởi kiện của anh Mai Văn T.

* Ý kiến của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71, 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án: Căn cứ vào các Điều 12, 166 của Luật Đất đai; các Điều 163, 164, 169 của Bộ luật Dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Mai Văn T.

- Buộc bà Lê Thị L chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại số nhà B, đường N, thành phố Q, tỉnh B đối với anh Mai Văn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Anh Mai Văn T khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị L chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất, cụ thể quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại khoản 1 Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013. Tại phiên tòa lần thứ hai hôm nay, bị đơn bà Lê Thị Liên tiếp t vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan mặc dù đã được tống đạt hợp lệ; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T2, ông Trần Ngọc L2, bà Trần Thị T3 vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử xác định vụ án dân sự có quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh B và phiên tòa vẫn được tiến hành theo quy định.

[2] Thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại tổ E, khu phố H, phường N, thành phố Q, tỉnh B, có nguồn gốc của vợ chồng ông Trần Đình H1, bà Nguyễn Thị M1 tạo lập từ năm 1970 với diện tích 516m2. Quá trình sử dụng, vợ chồng ông H1, bà M1 chuyển nhượng cho nhiều người, đến năm 1997 đo vẽ hồ sơ kỹ thuật thửa đất diện tích còn lại là 232,7m2, loại đất ở, đứng tên chủ sử dụng là bà Nguyễn Thị M1. Theo giấy xác nhận ngày 12-8-1997, vợ chồng ông H1, bà M1 đồng xác nhận cho vợ chồng ông Trần Văn S1, bà Lê Thị L một căn nhà thuộc thửa đất nêu trên với diện tích 34m2, có giới cận: Nam giáp đường luồng vô núi bà H2; Bắc giáp phần còn lại của vợ chồng ông H1, bà M1; Đông giáp đường N; Tây giáp nhà chính (nhà từ đường); giấy có Khu vực trưởng ký xác nhận ngày 22-8-1997. Tại Giấy phân chia tài sản (bất động sản) ngày 01-7- 2001, vợ chồng ông H1, bà M1 phân chia toàn bộ nhà, đất nêu trên cho 04 con trai và 04 con gái, trong đó phần chia cho ông Trần Đình S2 có chiều rộng 3,40m x chiều sâu 10m (= 34m2), có giới cận: Phía Đông giáp đường N; phía Tây giáp nhà vợ chồng ông H1, bà M1 đang ở; phía Nam giáp hẻm B N; phía Bắc giáp lô số 2 chia cho Trần Ngọc M. Theo Quyết định số 7894/QĐ-UBND ngày 26-10-2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Q về việc thu hồi đất của hộ gia đình ông Trần Đình H1 (chết) và bà Nguyễn Thị M1 (chết) đã tặng cho ông Trần Văn S1 (chết) và bà Lê Thị L do ảnh hưởng GPMB công trình xây dựng đường H nối dài trên địa bàn phường N, thành phố Q, phần diện tích đất tặng cho bị thu hồi là 34,2m2. Bà L đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và lô đất tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Ủy ban nhân dân thành phố Q. Qua xác minh ngày 15-12-2023 cho thấy bà L không còn nhà đất thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14 vì đã bị thu hồi toàn bộ theo Quyết định số 7894/QĐ-UBND.

[3] Sau khi chia giao nhà, đất cho các con theo Giấy phân chia tài sản (bất động sản) ngày 01-7-2001, vợ chồng ông H1, bà M1 đã lập Hợp đồng mua bán nhà ngày 18-5-2002 cho người mua là anh Mai Văn T với diện tích 26m2, giá tiền 150.000.000 đồng, có giới cận: Đông giáp đường N; Tây giáp nhà ông Trần Đình H1; Nam giáp vách tường nhà ông Trần Ngọc M; Bắc giáp nhà ông Trần Ngọc L1 Hợp đồng đồng mua bán nhà có đầy đủ chữ ký của bên bán, bên mua, các hộ liền kề và được Khu vực trưởng ký xác nhận ngày 20-5-2002; tuy chưa qua công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nhưng bên bán đã bàn giao nhà đất và bên mua đã giao tiền đầy đủ, đã nhận nhà đất, sử dụng liên tục, ổn định, không ai tranh chấp. Đến ngày 10-6-2022, bà Lê Thị L có Đơn yêu cầu về việc giải quyết ngăn chặn với nội dung “yêu cầu cơ quan chức năng không được cấp quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho những hộ có liên quan khi chưa giải quyết cho gia đình tôi rõ ràng thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14.”; những hộ có liên quan đến thửa đất này theo như trong đơn bà L trình bày có ông Trần Ngọc M và anh Mai Văn T. Như đã phân tích trên, toàn bộ nhà, đất 34,2m2 của vợ chồng ông S1, bà L được vợ chồng ông H1, bà M1 tặng cho năm 1997 đã bị thu hồi theo Quyết định số 7894/QĐ-UBND, bà L đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và đất tái định cư, đã xây dựng nhà ở ổn định tại số nhà A, đường L, phường Đ, thành phố Q; bà L đã không còn nhà, đất tại thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14, nên bà L không có quyền yêu cầu cơ quan chức năng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với anh Mai Văn T, ông Trần Ngọc M, trừ khi bà đã có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp và có chứng cứ chứng minh vợ chồng bà còn có quyền sử dụng hợp pháp đối với thửa đất đó. Bởi vậy, việc anh T khởi kiện cũng như đề nghị của ông M buộc bà L chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14 là phù hợp với Điều 169 của Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 10 Điều 12, khoản 1 Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013, có đủ căn cứ để chấp nhận.

[4] Theo điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được miễn nộp vì thuộc diện người cao tuổi. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp cho anh T.

[5] Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 169 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Khoản 10 Điều 12, khoản 1 Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013;

- Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Mai Văn T.

Buộc bà Lê Thị L chấm dứt mọi hành vi cản trở trái pháp luật quyền đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với anh Mai Văn T, ông Trần Ngọc M tại thửa đất số 357, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại tổ E, khu phố H, phường N, thành phố Q, tỉnh B.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

2.1. Bà Lê Thị L được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm vì thuộc diện người cao tuổi 2.2. Hoàn trả cho anh Mai Văn T tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003327 ngày 21 tháng 02 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q, tỉnh Bỉnh Định.

3. Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất số 26/2024/DS-ST

Số hiệu:26/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về