TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 163/2022/DS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE, TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM
Ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 416/2021/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2022/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 6 năm 2022, về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản bị xâm phạm”, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông H, sinh năm 2001.
Nơi cư trú: Số 15, ấp C, xã H, thành phố C, tỉnh C.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Y, sinh năm 1966.
Nơi cư trú: Số 15, ấp Cái Nai, xã Hòa Tân, thành phố C. Có mặt.
- Bị đơn: Ông K, sinh năm 1986.Vắng mặt.
Nơi cư trú: Ấp 3, xã T, thành phố H, tỉnh C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Y trình bày:
Vào khoảng 05 giờ sáng ngày 09/02/2021, ông H điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 69B1 – xxxxx đi từ Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố C lưu thông trên đường H Văn Thụ đi ra quốc lộ 1A, lúc đó ông K điều khiển xe mô tô hiệu Exciter 150cc biển số 69B1 – xxxxx chạy chiều ngược lại từ hướng quốc lộ 1A trên đường H Văn Thụ về Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố C, chạy qua mặt một xe khác lấn qua phần đường bên trái đâm thẳng vào xe ông H đang điều khiển, làm ông H ngất xỉu bất tỉnh. Sau đó, ông H được đưa vào bệnh viện đa khoa C, còn ông K bỏ trốn khỏi hiện trường nơi xảy ra tai nạn. Trong quá trình nhập viện, ông K không thăm hỏi và khắc phục hậu quả. Sau khi ông H được xuất viện, Cơ quan giao thông thành phố C mời ra làm việc nhiều lần nhưng bên phía ông K đều vắng mặt.
Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông là do ông K điều khiển xe không thực hiện đúng quy tắc tham gia giao thông “không đúng phần đường quy định”. Tai nạn xảy ra làm cho ông H gãy xương bàn chân, ngón chân, gãy thành ngoài hốc mắt trái, gãy xương đoàn và phải nhập viện điều trị là do lỗi hoàn toàn là của ông K nên yêu cầu ông K bồi thường các khoản sau: Chi phái khám, chữa bệnh: 18.134.000 đồng; Tiền chụp xquang (tái khám) 588.000 đồng; chi phí khám bệnh (tái khám) là 890.000 đồng; Tiền thuốc khi tái khám là 2.590.000 đồng; tiền sửa xe 6.367.000 đồng; tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh 07 ngày, mỗi ngày 80.000 đồng bằng số tiền là 560.000 đồng; tiền mất thu nhập làm công hàng ngày của ông H là 150 ngày, mỗi ngày 166.000 đồng, bằng tống số tiền là 24.900.000 đồng. Tổng số tiền tất cả các khoản là 54.029.000 đồng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn bồi thường theo toa vé tiền chi phái khám, chữa bệnh khi nằm viện điều trị từ ngày 09/02/2021 đến ngày 15/02/2021 là 9.067.000 đồng; chi phí khám, chữa bệnh (tái khám) là 857.400 đồng; Tiền thuốc khi tái khám là 2.431.904 đồng; tiền sửa xe 6.367.000 đồng; tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh 07 ngày, mỗi ngày 80.000 đồng (2 người x 07 ngày x 40.000 đồng) bằng số tiền là 560.000 đồng; tiền mất thu nhập của ông H và người nuôi bệnh là 07 ngày và 04 ngày đi tái khám (ngày 22/02/2021;
09/3/2021; 09/4/2021 và ngày 21/5/2021); mỗi ngày 166.000 đồng (02 người x 11 ngày x 166.000 đồng), bằng số tiền 3.652.000 đồng. Tổng số tiền tất cả các khoản là 22.935.304 đồng. Đối với việc ông H phải phẩu thuật lấy cây Inox ra đây là thiệt hại chưa xảy ra và chưa có chứng từ thể hiện nên ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nếu sau này phẩu thuật lấy cây Inox ra sẽ khởi kiện thành vụ án khác. Ngoài ra, không yêu cầu gì thêm.
Đối với ông K: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập đương sự để xét xử hợp lệ, song ông K vắng mặt không rõ lý do, nên vụ án được tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo luật định.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C về chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn thực hiện chưa đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 584, 585,586, 589, 590 Bộ luật dân sự đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông K có nghĩa vụ bồi thường cho ông H các khoản tiền chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc, tiền mất thu nhập và khoản tiền tiền sửa chữa xe bằng tổng số tiền là 22.935.304 đồng; Về án phí bị đơn phải chịu theo quy định.
[1] Về tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện, yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận quan hệ tranh chấp của các đương sự được xác định là tranh chấp về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xạm phạm quy định tại các Điều 589, 590 Bộ luật dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền của Tòa án giải quyết: Bị đơn K có nơi cư trú tại ấp 3, xã Tân Thành, thành phố C, tỉnh C nên theo quy định tại khoản 6 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố C nên Tòa án nhân dân thành phố C thụ lý và đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Ông K đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo luật định. [1.4] Về việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện: Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 7 năm 2021, nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường tiền chi phái khám, chữa bệnh; Tiền chụp xquang (tái khám); chi phí khám bệnh (tái khám); Tiền thuốc khi tái khám; tiền sữa xe; tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh; tiền mất thu nhập của người bệnh bằng tổng số tiền là 54.029.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn bồi thường theo toa vé tiền chi phí khám, chữa bệnh; chi phí khám, chữa bệnh (tái khám); Tiền thuốc khi tái khám; tiền sửa xe; tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh; tiền mất thu nhập của người bệnh và người nuôi bệnh bằng tổng số tiền là 22.935.304 đồng. Xét thấy việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, không bị ai ép buộc và không vượt quá phạm vi khởi kiện của nguyên đơn nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[1.5] Đối với việc ông H phải phẩu thuật lấy cây Inox ra đây là khoản thiệt hại mà ông H chưa thực hiện phẩu thuật và chưa có toa vé, chứng từ thể hiện, ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét. Ông H có quyền khởi kiện bị đơn thành vụ kiện dân sự khác sau khi thực hiện phẩu thuật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về nội dung tranh chấp: Vào khoảng 05 giờ sáng ngày 09/02/2021, ông H điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 69B1 – xxxxx đi từ Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố C lưu thông trên đường H Văn Thụ ra hướng quốc lộ 1A, lúc đó ông K điều khiển xe mô tô hiệu Exciter 150cc biển số 69B1 – xxxxx chạy chiều ngược lại từ hướng quốc lộ 1A trên đường H Văn Thụ về Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố C, chạy lấn qua phần đường bên trái và va quẹt vào xe ông H đang điều khiển, tại nạn xảy ra làm ông H ngất xỉu bất tỉnh, xe của ông H bị hư hỏng. Sau đó, ông H được đưa vào bệnh viện đa khoa C điều trị. Tại nạn xảy ra là do lỗi hoàn toàn của ông K, gây thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho ông H nhưng Công an giao thông thành phố C mời ông K làm việc nhiều lần để các bên thỏa thuận, thương lượng nhưng ông K vắng mặt nên các bên tranh chấp.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2.2.1] Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường:
Căc cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, đối chiếu với sơ đồ hiện trường vụ tại nạn giao thông và Thông báo kết quả điều tra, xác minh, giải quyết vụ tai nạn giao thông của Công an thành phố C ngày 16/02/2021 xác định lỗi thuộc về phía ông K là người điều khiển xe mô tô hiệu Exciter 150cc biển số 69B1 – xxxxx đi không đúng phần đường quy định, được quy định khoản 1 Điều 9 của Luật giao thông đường bộ. Ông H điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 69B1 – xxxxx không có lỗi, vụ tai nạn giao thông gây thiệt hai chưa đến mức truy cứ trách nhiệm hình sự, các bên giải quyết theo thủ tục dân sự. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 05 giờ 45 phút, ngày 09/02/2021, ông H điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 69B1 – xxxxx đi từ Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố C lưu thông trên đường H Văn Thụ ra hướng quốc lộ 1A, lúc này ông K điều khiển xe mô tô hiệu Exciter 150cc biển số 69B1 – xxxxx chạy chiều ngược từ hướng quốc lộ 1A trên đường H Văn Thụ về Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố C, lấn qua phần đường bên trái va quẹt vào xe ông H đang điều khiển, tại nạn xảy ra là do lỗi của ông K điều khiển xe không thực hiện đúng quy tắc tham gia giao thông “không đúng phần đường quy định” được quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật giao thông đường bộ.
Tai nạn xảy ra, làm hư hỏng xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx của ông H điều khiển và ông H ngất xỉu bất tỉnh và phải nhập viện điều trị từ ngày 09/02/2021 đến ngày 15/02/2021 và sau khi xuất viện ông H phải đi tái khám 04 lần (vào các ngày 22/02/2021; 09/3/2021; 09/4/2021 và ngày 21/5/2021) là thực tế có xảy ra.
Tại Điều 584 của Bộ luật dân sự quy định người nào có hành vi xâm phạm sức khỏe, tài sản của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Từ những căn cứ, phân tích và nhận định nêu trên, ông K phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản từ vụ việc tai nạn giao thông gây ra cho ông H là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.2.2] Xét yêu cầu bồi thường của nguyên đơn:
Tại phiên tòa, nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường theo toa vé các khoản sau: Chi phái khám, chữa bệnh khi nằm viện điều trị từ ngày 09/02/2021 đến ngày 15/02/2021 là 9.067.000 đồng; chi phí khám, chữa bệnh (tái khám) là 857.400 đồng; Tiền thuốc khi tái khám là 2.431.904 đồng; tiền sửa xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx là 6.367.000 đồng; tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh 07 ngày, mỗi ngày 80.000 đồng (2 người x 07 ngày x 40.000 đồng) bằng số tiền là 560.000 đồng; tiền mất thu nhập của ông H và người nuôi bệnh (từ ngày 09/02/2021 đến ngày 15/02/2021) là 07 ngày và 04 ngày (các ngày 22/02/2021; 09/3/2021; 09/4/2021 và ngày 21/5/2021) đi tái khám, mỗi ngày 166.000 đồng, bằng số tiền là 3.652.000 đồng. Tổng số tiền tất cả các khoản là 22.935.304 đồng. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có ý kiến phản đối việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường các khoản thiệt hại nêu trên. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đối chiếu lời trình bày của nguyên đơn, các toa vé và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án thể hiện tai nạn xảy ra nguyên đơn đã thiệt hại thực tế bao gồm các khoản mà nguyên đơn yêu cầu là phù hợp với các toa vé và chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và phù hợp với quy định của pháp luật cho nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên được chấp nhận.
Vì vậy, cần buộc bị đơn phải có nghĩa vụ bồi thường cho nguyên đơn các khoản tiền chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc, tiền mất thu nhập và khoản tiền tiền sửa chữa xe bằng tổng số tiền là 22.935.304 đồng là phù hợp.
[3] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bị đơn phải chịu theo quy định. Nguyên đơn thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định nên không đặt ra việc hoàn lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 584, 585,586, 589, 590 Bộ luật dân sự;
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 92, 144, 147, 227, 228, 244, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn H. Buộc ông K có nghĩa vụ bồi thường cho ông H các khoản tiền chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc, tiền mất thu nhập và khoản tiền sửa chữa xe bằng tổng số tiền là 22.935.304 đồng.
Kể từ ngày ông H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông K không tự nguyện thi hành xong, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 1.147.000 đồng ông K phải nộp (chưa nộp). Ông H được miễn nộp án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nên không đặt ra việc hoàn lại khi bản án có hiệu lực.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điêù 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xâm phạm số 163/2022/DS-ST
Số hiệu: | 163/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về