Bản án về xin ly hôn và tranh chấp nuôi con số 04/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ XIN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 122/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXX-ST ngày 10/02/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1979; Trú tại: Xóm Đ, thôn V, xã Tân M, huyện S, thành phố Hà Nội

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1984; Nơi Đ ký HKTT: Thôn 4, xã Cẩm H, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; Hiện trú tại: 56/1A, đường L, phường An P, thành phố Thuận A, tỉnh Bình Dương.

(Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị V cũng như các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, vụ án có nội dung: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn L Đ ký kết hôn tại UBND xã Tân M, huyện S, thành phố Hà Nội ngày 09/01/2008, hôn nhân tự nguyện, tự do tìm hiểu, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Lý do mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, anh L thường xuyên xúc phạm và coi thường chị. Từ năm 2016 đến nay vợ chồng sống ly thân, không tìm cách hàn gắn tình cảm, thời gian gần đây vợ chồng không liên lạc gì với nhau. Nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nguyễn Thị V yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 27/12/2008 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 13/9/2012. Hiện nay con Nguyễn Hải Đ đang ở với chị V nên chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nuôi cháu Đ, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Đồng thời, để cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Duy K vì hiện cháu K đang ở với anh.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung; không nợ ai và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày (Do Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thực hiện theo Quyết định Uỷ thác thu thập chứng cứ số 02/2021/QĐ-UTTA ngày 04/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên): Anh L thống nhất như chị V trình bày, hôn nhân tự nguyện, tự do tìm hiểu, không bị ai ép buộc. Vợ chồng đã sống ly từ lâu, nay anh không còn tình cảm đối với chị V, không tìm cách để hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị V; Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 27/12/2008 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 13/9/2012. Anh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Duy K, không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con, đồng thời nhường cho chị V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nuôi con Nguyễn Hải Đ; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên tại phiên tòa:

Về việc tuân theo tố tụng của thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Không có trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng; Quá trình giải quyết vụ án đã tuân theo đúng quy định của phiên tòa dân sự sơ thẩm nên không yêu cầu khắc phục vi phạm về thủ tục tố tụng; Tòa án đã tiến hành tống đạt, thu thập tài liệu, chứng cứ đảm bảo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, việc xét xử vắng mặt các đương sự là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có tại vụ án, nhận thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn L đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm không còn. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a, b Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 54, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a Khoản 1 điều 24, Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, xử cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn với anh Nguyễn Văn L; Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 27/12/2008; giao cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Duy K, sinh ngày 13/9/2012 đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), chị V và anh L không ai phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con; Vợ chồng thống nhất không có tài sản chung, không nợ ai và không ai nợ vợ chồng, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị V có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Văn L, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; anh Nguyễn Văn L có nơi Đ ký HKTT: Thôn 4, xã C, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh, từ trước đến nay chưa cắt khẩu, chuyển khẩu đi nơi khác, do công việc nên hiện trú tại số 56/1A, đường Lê Thị Trung, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, quá trình sinh sống anh thường xuyên về tại nơi Đ ký HKTT, anh Nguyễn Văn L nhất trí việc Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh giải quyết vụ án nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau khi đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt vì lý do tình hình diễn biến COVID -19 phức tạp, việc đi lại khó khăn; Qúa trình giải quyết vụ án, bị đơn đã đề nghị vắng mặt tại các buổi làm việc, tiếp cận công khai chứng cứ và hỏa giải và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn L đã tuân thủ các điều kiện kết hôn và Đ ký kết hôn ngày 09/01/2008 tại UBND xã Tân M, huyện S, thành phố Hà Nội. Căn cứ quy định về điều kiện kết hôn của Luật hôn nhân và gia đình thì đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, theo chị V nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm, anh L chửi bới, xúc phạm, coi thường chị. Từ năm 2016 đến nay vợ chồng sống ly thân, thời gian gần đây không liên lạc với nhau. Tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị có nguyện vọng được ly hôn, giải phóng cho hai người để mỗi người có cuộc sống riêng, tốt đẹp hơn. Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn L cho rằng nay không còn tình cảm gì đối với chị V, không tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên nhất trí việc chị V xin ly hôn với anh.

Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, vợ chồng thương yêu, tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau… nhưng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn L không đạt được mục đích đó, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Theo Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn”. Vì vậy, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị V, xử cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

[2.2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn L thống nhất trong quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 27/12/2008 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 13/9/2012. Xét thấy, hiện nay cháu Nguyễn Hải Đ đang được chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cháu đã trên 07 tuổi và có đơn nguyện vọng mong muốn được ở với mẹ nên cần giao cho chị V tiếp tục được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đ. Còn đối với cháu Nguyễn Duy K hiện đang được anh L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, cháu đã trên 07 tuổi và có đơn nguyên vong mong muốn được ở với bố nên cần giao cháu K cho anh L tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Chị V và anh L không ai yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng thống nhất không có tài sản chung, không nợ ai và không ai nợ vợ chồng, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo luật định.

[4] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a, b Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 53, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a Khoản 1 điều 24, Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị V, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

- Về con chung: Giao con Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 27/12/2008 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi); Giao con Nguyễn Duy K, sinh ngày 13/9/2012 cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn L không ai phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền đi lại thăm nom các con chung, không ai được ngăn cản.

2. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Xuyên theo biên lai thu tiền số 0008798 ngày 29/12/2021. Tiền án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị V đã nộp đủ.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn và tranh chấp nuôi con số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về