Bản án về xin ly hôn và nuôi con chung số 35/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 119/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 13/6/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2022/QĐ-HPT ngày 04/7/2022 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị S, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk . (Chị Đỗ Thị S có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1.Trong bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị S trình bày:

-Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Hoàng Văn K có tìm hiểu, yêu thương nhau và đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 24/11/2006 trên cơ sở tự nguyện. Chúng tôi chung sống hạnh phúc được một thời gian, sinh được 02 con chung, đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau nên chúng tôi thường xuyên xảy ra cãi vã, không còn vui vẻ và biết thông cảm cho nhau, do không thể tiếp tục duy trì được mối quan hệ hôn nhân nên chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2011 đến nay. Vì vậy tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Hoàng Văn K.

-Về con chung: Trong quá trình chung sống chúng tôi có 02 đứa con chung là cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011. Tôi có nguyện vọng nuôi dưỡng cả 02 cháu cho đến khi các cháu trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi không yêu cầu anh Hoàng Văn K cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Văn K vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và xét xử.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

-Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Về nội dung vụ án:

Đối với quan hệ hôn nhân: Căn cứ và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay có thể xác định tình trạng hôn nhân của chị Đỗ Thị S và anh Hoàng Văn K mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được, chị Đỗ Thị S và anh Hoàng Văn K đã sống ly thân từ năm 2011 đến nay. Do đó có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị S.

Đối với con chung: Vợ chồng chị S anh K có 02 con chung là cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011, quá trình giải quyết vụ án chị Đỗ Thị S có nguyện vọng được nuôi dưỡng các con chung do hiện nay cháu đang cùng sống với mẹ và đang được chị S trực tiếp chăm sóc. Xét thấy nguyện vọng của chị S là chính đáng, đảm bảo cho sự phát triển của các con, phù hợp với quy định của pháp luật, vì vậy căn cứ vào khỏan 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao 02 con cho chị Đỗ Thị S nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành.

Từ những nhận định nêu trên, Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Thị S được ly hôn với anh Hoàng Văn K.

Về con chung: Giao cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011 cho chị Đỗ Thị S được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đỗ Thị S không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra để giải quyết.

Đối với tài sản chung và nợ chung: Chị Đỗ Thị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1].Về quan hệ pháp luật: Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự và loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2].Về trình tự thủ tục tố tụng: Xét thấy bị đơn anh Hoàng Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, nguyên đơn chị Đỗ Thị S có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3].Về nội dung:

-Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị S và anh Hoàng Văn K có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 24/11/2006, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ chồng 02 con chung là cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011. Sau một thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống bất đồng nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2011 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, chị S xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh Hoàng Văn K không đến tham gia tố tụng.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Đỗ Thị S và anh Hoàng Văn K đã đến mức trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ năm 2011 đến nay mà không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình, chị S xác định tình cảm không còn và kiên quyết xin ly hôn. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị S và anh Hoàng Văn K không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đỗ Thị S, cho chị Đỗ Thị S được ly hôn với anh Hoàng Văn K.

-Về con chung: Qua trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011. Hiện nay cả 02 cháu đang sống cùng mẹ, chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi các con đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Hoàng Văn K cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy quá trình giải quyết vụ án, anh Hoàng Văn K không tham gia tố tụng nên không thể xác định nguyện vọng về con chung của anh K, như vậy nguyện vọng của chị S là chính đáng, để đảm bảo quyền lợi cho các con cần chấp nhận nguyện vọng của chị S, giao các con chung là cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011 cho chị S nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Anh Hoàng Văn K được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên anh K không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

-Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị S không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

-Về yêu cầu chia tài sản chung và nợ chung: Chị Đỗ Thị S không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị Đỗ Thị S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, 82 , 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014. Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đỗ Thị S.

-Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Thị S được ly hôn với anh Hoàng Văn K.

-Về con chung: Giao cháu Hoàng Duy K, sinh ngày 27/10/2007 và cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 02/9/2011 cho chị Đỗ Thị S nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Anh Hoàng Văn K được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên anh K không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

-Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị S không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

-Về yêu cầu chia tài sản chung và nợ chung: Chị Đỗ Thị S không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

-Về án phí:

Chị Đỗ Thị S phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 60AA/2021/0015948 ngày 16/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn và nuôi con chung số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về