Bản án về xin ly hôn và nuôi con chung số 148/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH G

BẢN ÁN 148/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2022 VỀ XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 30 tháng 12 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất, tỉnh G xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 400/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2022 về việc: “Xin ly hôn và nuôi con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Phạm Thị B N, sinh năm 2000.

Địa chỉ: ấp Giàn Gừa, xã Sơn Bình, Huyện Hòn Đất, tỉnh G.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Vũ P, sinh năm 1995.

Địa chỉ: ấp Số 8, xã Sơn Kiên, Huyện Hòn Đất, tỉnh G.

(Chị N có mặt, anh P có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị B N trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Chị Phạm Thị B N và anh Nguyễn Vũ P tự tìm hiểu yêu thương nhau được hai bên gia đình tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Sơn Kiên, Huyện Hòn Đất, tỉnh G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/11/2018. Quá trình chung sống giữa chị N và anh P lúc đầu rất vui vẽ, hạnh phúc. Đến giữa năm 2022 vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do anh P thường xuyên tụ tập bạn bè, ăn chơi, chơi điện tử và không chăm lo cho gia đình. Chị N nhiều lần kHên ngăn nhưng anh P không thay đổi đến đầu năm 2022 do mâu thuẫn trầm trọng nên chị N và anh P đã ly thân nhau cho đến nay. Quá trình ly thân chị N và anh P không có liên lạc để hàn gắn quan hệ hôn nhân. Nay xét thấy tình cảm không còn, cuộc sống vợ chồng không đạt được hạnh phúc nên chị Phạm Thị B N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Vũ P.

- Về con chung: Quá trình chung sống chị Phạm Thị B N và anh Nguyễn Vũ P có 02 người con chung tên Nguyễn Phạm Gia H, sinh ngày 11/01/2019 và Nguyễn Phạm Gia B, sinh ngày 18/8/2017 hiện đang ở cùng với chị N. Sau khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi dưỡng 02 người con chung nêu trên đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị N trình bày giữa chị và anh P không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nơ chung: Chị N trình bày giữa chị và anh P không có nợ chung nên không yêu câu Toa an xem xét, giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Vũ P trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Anh Nguyễn Vũ P và chị Phạm Thị B N tự tìm hiểu yêu thương nhau được hai bên gia đình tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Sơn Kiên, Huyện Hòn Đất, tỉnh G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/11/2018. Quá trình chung sống giữa anh P và chị N lúc đầu rất vui vẽ, hạnh phúc. Đến giữa năm 2022 vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do đó anh P buồn cHuyện gia đình nên bỏ về nhà mẹ ruột ở đến nay. Ý kiến anh P nếu chị N cương quyết ly hôn thì anh P đồng ý ly hôn với chị N.

- Về con chung: Quá trình chung sống anh Nguyễn Vũ P và chị Phạm Thị B N có 02 người con chung tên Nguyễn Phạm Gia H, sinh ngày 11/01/2019 và Nguyễn Phạm Gia B, sinh ngày 18/8/2017 hiện đang ở cùng với chị N. Sau khi ly hôn anh P đồng ý giao 02 người con chung nêu trên cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và anh P không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Anh P trình bày giữa anh và chị N không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nơ chung: Anh P trình bày giữa anh và chị N không có nợ chung nên không yêu câu Toa an xem xét, giải quyết.

* Tại phiên tòa vị đại diện VKS phát biểu quan điểm:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã chấp hành đúng nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm B đúng nguyên tắc xét xử. Thư ký thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định tại Điều 51 BLTTDS.

- Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 và Điều 72 BLTTDS.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị N được ly hôn với anh P. Về con chung đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao 02 người con chung tên Nguyễn Phạm Gia H, sinh ngày 11/01/2019 và Nguyễn Phạm Gia B, sinh ngày 18/8/2017 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ghi nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Đề nghị HĐXX không xem xét. Về án phí: Buộc chị Phạm Thị B N chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn chị Phạm Thị B N yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Nguyễn Vũ P. Anh P cư trú trên địa bàn Huyện Hòn Đất, tỉnh G. Xét thấy đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất, tỉnh G theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bi đơn anh Nguyễn Vũ P có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt anh P. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Vũ P tại phiên tòa.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về hôn nhân: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Chị Phạm Thị B N và anh Nguyễn Vũ P xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện, anh chị có tổ chức đám cưới theo phong tục địa P, có thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Sơn Kiên, Huyện Hòn Đất, tỉnh G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/11/2018. Như vậy, hôn nhân giữa chị N và anh P là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và B vệ.

Theo đơn khởi kiện chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P do tình cảm vợ chồng không còn và không thể hàn gắn được. Xét yêu cầu của chị N thì Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình chung sống với nhau, chị N trình bày cuộc sống vợ chồng anh chị mâu thuẫn do anh P thường xuyên tụ tập bạn bè chơi điện tử và không chăm lo cho gia đình. Chị N nhiều lần kHên ngăn nhưng anh P không thay đổi. Đến cuối giữa 2022 do mâu thuẫn nên chị N và anh P đã ly thân nhau cho đến nay. Hiện tại chị N và anh P không liên lạc, không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa, cũng không thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Quá trình giải quyết vụ án tòa án tiến hành giải thích pháp luật và động viên chị Phạm Thị B N đoàn tụ để nuôi dạy con chung đến tuổi trưởng thành nhưng chị N vẫn kiên quyết muốn ly hôn với anh P. Tòa án có tiến hành ghi lời khai của anh P thì anh P cho rằng cuộc sống vợ chồng giữa anh và chị P gần đây có xảy ra mâu thuẫn, anh chị hiện đã ly thân. Nếu chị N cương quyết ly hôn với anh thì anh P cũng đồng ý. Qua đó chứng minh được mối quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh P đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn và hôn nhân không đạt được mục đích. Nên việc chị N yêu cầu được ly hôn với anh P là có cơ sở để được HĐXX xem xét chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Chị Phạm Thị B N và anh Nguyễn Vũ P thừa nhận quá trình chung sống thì anh chị có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Phạm Gia H, sinh ngày 11/01/2019 và Nguyễn Phạm Gia B, sinh ngày 18/8/2017 hiện đang ở cùng với chị N. Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án chị N yêu cầu được nuôi 02 người con chung nêu trên đến tuổi trưởng thành. Xét yêu cầu nuôi con của chị N Hội đồng xét xử nhận thấy: Hiện chị N là người đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu H và cháu B. Quá trình chung sống với chị N thì cháu H và cháu B được chị N chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển bình thường. Quá trình ghi lời khai anh P cũng đồng ý giao cháu H và cháu B cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Do đó, để đảm B ổn định cuộc sống của các cháu, giúp các cháu phát triển tốt về mặt thể chất và tinh thần. Hội đồng xét xử ghi nhận ý của chị N và anh P giao cháu H và cháu B cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N trình bày có đủ khả năng để nuôi dưỡng con chung nên không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con. Do đó HĐXX không xem xét.

[3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phạm Thị B N và anh Nguyễn Vũ P đều xác nhận không có tài sản chung, không có nợ ai và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Ý kiến phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hòn Đất là có cơ sở để được HĐXX xem xét chấp nhận trong quá trình nghị án.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị Phạm Thị B N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng các Điều 56; 58; 81; 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Tuyên Xử:

1/. Vê hôn nhân: Chị Phạm Thị B N được ly hôn với anh Nguyễn Vũ P.

2/. Vê con chung: Ghi nhận sự tự nguyện giữa các đương sự: Giao cháu Nguyễn Phạm Gia H, sinh ngày 11/01/2019 và Nguyễn Phạm Gia B, sinh ngày 18/8/2017 cho chị Phạm Thị B N tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Vũ P không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Phạm Thị B N không yêu cầu.

Anh Nguyễn Vũ P có quyền được thăm nom , chăm soc , giáo dục con chung không ai đươc quyên ngăn can theo quy định của pháp luật.

4/. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên miễn xét.

5/. Vê an phi hôn nhân gia đình sơ thẩm : Chị Phạm Thị B N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm la 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiên tam ưng an phi đa nô p theo biên lai thu tạm ứng án phí , lệ phí Tòa án sô 0004162 ngày 10/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Hòn Đất, tỉnh G. Theo đo chị N không phải nộp thêm.

6/. Quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn và nuôi con chung số 148/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:148/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về