Bản án về xin ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 47/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH H

BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ XIN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, số 60 Nguyễn Huệ, phường Vĩnh Ninh, Thành phố H, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 271/2021/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2021 về việc xin ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh năm 1984;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số *** đường N, phường An Cựu, Thành phố H, tỉnh H.

Chỗ ở hiện nay: Số *** đường SH, phường Phú Bài, thị xã Hương Thủy, tỉnh H. Có mặt.

Bị đơn: Anh Lê Quốc C, sinh năm 1983;

Địa chỉ: số *** đường N, phường An Cựu, Thành phố H, tỉnh H.

Vắng mặt, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Quỳnh C và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Cựu, Thành phố H, tỉnh H vào ngày 08/8/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ anh Cường ở 56B Nguyễn Khoa Chiêm, phường An Cựu, Thành phố H. Quá trình chung sống, vợ chồng chỉ có thời gian ngắn hạnh phúc thì nảy sinh mâu thuẫn vợ chồng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Cường hay nhậu nhẹt bê tha nên về nhà vợ chồng thường hay gây gỗ, xô ẩu nhau. Vào tháng 6/2019 chị Chi đã bỏ về nhà bố mẹ ruột tại phường Phú Bài, thị xã Hương Thủy, tỉnh H để ở và sống ly thân với anh Cường từ đó cho đến nay. Từ khi sống ly thân, vợ chồng cũng không còn quan tâm, liên lạc gì nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nguyễn Thị Quỳnh C xin được ly hôn với anh Lê Quốc C.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C có 02 con chung là Lê Anh Minh, sinh ngày 07/5/2009 và Lê Anh Bình, sinh ngày 10/3/2015. Hiện cháu Lê Anh Minh đang ở với anh Cường, còn cháu Lê Anh Bình ở với chị Chi nên khi ly hôn chị Chi có nguyện vọng được trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bình còn giao cháu Minh cho anh Cường trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Vấn đề cấp dưỡng không đặt ra.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Chi xác định giữa chị và anh Cường không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản xác minh ngày 20/7/2021 bị đơn- anh Lê Quốc C trình bày:

Anh Cường thừa nhận quá trình chung sống giữa anh và chị Chi xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, sống không hạnh phúc. Từ hơn hai năm nay vợ chồng không còn chung sống với nhau. Nay chị Nguyễn Thị Quỳnh C xin ly hôn anh thì anh cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Lê Quốc C xác định giữa anh và chị Nguyễn Thị Quỳnh C có 02 con chung là Lê Anh Minh, sinh ngày 07/5/2009 và Lê Anh Bình, sinh ngày 10/3/2015. Nay ly hôn, anh cũng đồng ý giao cháu Lê Anh Bình cho chị Chi nuôi dưỡng, còn giao cháu Minh cho anh nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng không đặt ra.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Cường xác nhận giữa anh và chị Chi không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, tỉnh H có ý kiến như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Các đương sự chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật tố tụng Dân sự.

Kiểm sát viên phát biểu về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Quỳnh C được ly hôn với anh Lê Quốc C; giao cháu Lê Anh Minh, sinh ngày 07/5/2009 cho anh Lê Quốc C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến cháu Minh đủ 18 tuổi; giao cháu Lê Anh B, sinh ngày 10/3/2015 cho chị Nguyễn Thị Quỳnh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Bình đủ 18 tuổi; Vấn đề cấp dưỡng không đặt ra. Về tài sản chung và nợ chung: Chị C và anh C xác nhận không có nên không xem xét. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C xin ly hôn với anh Lê Quốc C. Anh Cường cư trú và làm việc tại phường An Cựu, Thành phố H, tỉnh H. Căn cứ vào Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố H, tỉnh H.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn – anh Lê Quốc C có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Cựu, Thành phố H, tỉnh H vào ngày 08/8/2008 nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống giữa chị Chi và anh Cường nảy sinh nhiều mâu thuẫn, sống không hạnh phúc. Nay chị Chi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Chi xin được ly hôn với anh Cường. Anh Cường cũng đồng ý ly hôn. Do đó việc chị Nguyễn Thị Quỳnh C xin được ly hôn anh Lê Quốc C là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần chấp nhận.

[2.2]. Về con chung:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C có 02 con chung là Lê Anh Minh, sinh ngày 07/5/2009 và Lê Anh Bình, sinh ngày 10/3/2015. Hiện cháu Minh đang ở với anh Cường, cháu Bình đang ở với chị Chi. Nay theo nguyện vọng của cháu Minh và theo sự thống nhất của hai bên đương sự là giao cháu Lê Anh Bình, sinh ngày 07/5/2009 cho anh Lê Quốc C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Bình đủ 18 tuổi; giao cháu Lê Anh Minh, sinh ngày 10/3/2015 cho chị Nguyễn Thị Quỳnh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Minh đủ 18 tuổi. Vấn đề cấp dưỡng không đặt ra.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung mà không ai có quyền ngăn cản.

Vì quyền và lợi ích của con, mỗi bên hoặc cả hai bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sau này.

[2.3]. Về tài sản chung:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4]. Về nợ chung:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C xác nhận vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Quỳnh C phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 35, Điều 39, Điều 143, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

- Áp dụng Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Quỳnh C được ly hôn với anh Lê Quốc C.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Anh M, sinh ngày 07/5/2009 cho anh Lê Quốc C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Minh đủ 18 tuổi; Giao cháu Lê Anh B, sinh ngày 10/3/2015 cho chị Nguyễn Thị Quỳnh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Bình đủ 18 tuổi. Vấn đề cấp dưỡng không đặt ra.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ lui tới thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trong trường hợp theo yêu cầu của cha, mẹ, cá nhân hoặc tổ chức theo quy định pháp luật thì Tòa án có quyền quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Quỳnh C và anh Lê Quốc C xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

5. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Quỳnh C phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị Chi đã nộp số tiền 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố H, tỉnh H (theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002531 ngày 19 tháng 5 năm 2021) nên được khấu trừ, khỏi phải nộp.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trang hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 47/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về