TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 69/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ XIN LY HÔN
Vào lúc 14 giờ 45 phút ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuy Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 289/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2020 về việc “xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2020/QĐXX-ST ngày 12 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2020/QĐST-DS giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Cao Thị Mỹ H, sinh năm 1991; địa chỉ: đường K, Khu phố 6, Phường P, Tp T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
- Bị đơn: Võ Đ, sinh năm 1989, địa chỉ: đường K, Khu phố 6, Phường P, Tp T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
NHẬN THẤY
Nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Võ Đ kết hôn năm 2011, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân phường P, Tp T, tỉnh Phú Yên. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng sau đó vợ chồng thường xuyên cãi vã, phát sinh mâu thuẫn, quan hệ hôn nhân không hàn gắn được. Nay tôi không còn tình cảm với anh Đ và yêu cầu ly hôn với anh Võ Đ.
Về con chung: Tôi và anh Võ Đ có 02 con chung tên Võ Ngọc B, sinh ngày: 31/08/2014 và cháu Võ Quỳnh Ch, sinh ngày 24/5/2017. Khi ly hôn, tôi sẽ nuôi cháu Võ Quỳnh Ch, vì khả năng tôi chỉ đi làm nuôi được 01 cháu. Còn lại tôi yêu cầu anh Đ phải nuôi 01 cháu là cháu Võ Ngọc B vì hiện nay cháu đang ở bên nội, đi học ổn định.
Tài sản chung và nợ chung: chúng tôi không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại các biên bản hòa giải, bị đơn anh Võ Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi không đồng ý lý hôn với chị H. Tôi cố gắng sửa đổi theo hướng tích cực để giúp vợ con tôi, chăm sóc các cháu được tốt hơn.
Về con chung: Thống nhất xác định vợ chồng có 02 con chung tên Võ Ngọc B, sinh ngày: 31/08/2014 và cháu Võ Quỳnh Ch, sinh ngày 24/5/2017. Tôi không đồng ý ly hôn. Nếu ly hôn thì cô H phải nuôi cả 2 đứa con chung. Tôi không cấp dưỡng nuôi cháu nào cả. Yêu cầu cô H suy nghĩ lại.
Về tài sản chung: Không có tài sản chung.
Về nợ chung: Cô H có trách nhiệm giải quyết nợ. Tôi không có liên quan gì cả.
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện VKS phát biểu: Quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ H; Về con chung: Giao cháu Võ Ngọc B – Sinh ngày: 31/8/2014 cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Võ Quỳnh Ch - sinh ngày 24/5/2017 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét, gải quyết; Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ H khởi kiện yêu cầu “xin ly hôn” với bị đơn anh Võ Đ nên xác định quan hệ pháp luật là “tranh chấp ly hôn” theo quy định tại khoả n 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tại đường K, Khu phố 6, Phường P, TP T, tỉnh Phú Yên nên theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa.
[2] Về thủ tục tố tụng: bị đơn anh Võ Đ đã được triệu tập hợp lệ 02 (hai) lần nhưng vắng mặt, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về nội dung vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: chị H và anh Đ tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn số số 123/2011, quyển số 01/2011 ngày 23/12/2011 tại UBND phường P, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Trong quá trình sống chung cuộc sống vợ chồng chị H và anh Đ không hạnh phúc, nguyên nhân là vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống vợ chồng, thường xuyên xảy ra xung đột tranh cãi và anh Đ có hành vi bạo lực nhiều lần đánh chị H, chị H đã nộp đơn ly hôn 01 lần và khi tòa án mời đến giải quyết anh Đ xin chị H tha thứ và hứa sửa chữa, nhưng sau khi chị H rút đơn khởi kiện thì anh Đ lại tiếp tục đánh chị H, quá trình Hòa giải tại Tòa anh Đ vẫn tiếp tục đánh chị H và đem theo dao để ham dọa chị H, chị H và anh Đ sống ly thân từ tháng 6 năm 2020 cho đến nay, hiện tình cảm vợ chồng giữa chị H với anh Đ không còn, nên chị H quyết định ly hôn với anh Đ. Xét tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh Đ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.
+ Về con chung: chị H và anh Đ đều thống nhất có 02 con chung tên Võ Ngọc B, sinh ngày: 31/08/2014 và cháu Võ Quỳnh Ch, sinh ngày 24/5/2017. HĐXX xét, hiện nay cháu Võ Quỳnh Ch đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng và chị H xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu Ch là phù hợp nên giao cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ch. Còn cháu Võ Ngọc B hiện đang do anh Võ Đ nuôi dưỡng, mặc dù anh Đ đề nghị giao cháu B cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng, xét hiện nay chị H đang làm thuê, thu nhập không ổn định và không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung, đồng thời chị H có ý kiến để cháu B cho anh Đ chăm sóc, nuôi dưỡng, nên chấp nhận giao cháu Võ Ngọc B cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
+ Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị H và anh Đ không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.
+ Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về án phí: chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ H. Nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ H được ly hôn với bị đơn anh Võ Đ;
Về con chung: Giao cháu Võ Ngọc B – Sinh ngày: 31/8/2014 cho anh Võ Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Võ Quỳnh Ch - sinh ngày 24/5/2017 cho chị Cao Thị Mỹ H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị H và anh Đ không yêu cầu nên không xem xét.
Khi cần thiết các bên có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về án phí: áp dụng Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.
Chị Cao Thị Mỹ H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0001516 ngày 29/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.
Quyền kháng cáo: nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai
Bản án về xin ly hôn số 69/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 69/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về