Bản án về xin ly hôn số 244/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM 

BẢN ÁN 244/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 109/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022 về việc: “Xin ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/QĐXX-ST ngày 15 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 45/QĐHPT ngày 29/7/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1987 (có mặt). Trú tại: Tổ 9, thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

- Bị đơn: Ông Trương Văn P, sinh năm 1982 (vắng mặt không có lý do). Trú tại: Tổ 9, thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/4/2022 và biên bản trình bày cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Tôi và anh Trương Văn P tự tìm hiểu, kết hôn năm 2008 có đăng ký tại UBND xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Trong quá trình chung sống do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, bản thân anh P ham mê cờ bạc, tính tình vũ phu nên thường xuyên đánh đập tôi. Khi xảy ra mâu thuẩn hai bên gia đình khuyên nhủ rất nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả gì, hiện nay vợ chồng tôi đã sống ly thân được một thời gian không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay tôi thấy tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên mong tòa cho tôi được ly hôn với anh Trương Văn P.

Về con chung: Tôi và anh Trương Văn P có 01 con chung tên Trương Văn T – sinh ngày 24/7/2010. Nguyện vọng của tôi xin nuôi con và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tôi và anh P tự giải quyết không yêu cầu tòa điều chỉnh. Về nợ chung: Tôi và anh P không có nợ chung.

* Bị đơn anh Trương Văn P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh P cố tình trốn tránh, không đến Tòa làm việc. Do đó, Tòa án không thu thập được lời khai của anh Trương Văn P.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư Ký, Hội đồng xét xử, nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án, trình tự thu thập chứng cứ là đúng quy định pháp luật. Đối với bị đơn không tuân thủ các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T.

- Về con chung: Xử giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi con chung tên Trương Văn T – sinh ngày 24/7/2010 đến 18 tuổi trưởng thành.

Chị T không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai vợ chồng tự giải quyết nên đề nghị HĐXX không xét.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị T khai không có nên đề nghị HĐXX không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là quan hệ ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vụ án có bị đơn anh Trương Văn P cư trú tại huyện T, tỉnh Quảng Nam. Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Nam thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Trương Văn P mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh Trương Văn P.

[2] Về nội dung vụ án: : Chị Nguyễn Thị T và anh Trương Văn P tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn vào năm 2008 có đăng ký tại UBND xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn theo chị T là do vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên cải vả, xúc phạm nhau, anh P cờ bạc, sống không có trách nhiệm với gia đình; mặc dù mâu thuẩn của vợ chồng đã được hai bên gia đình giải quyết nhưng cuộc sống vợ chồng chị T, anh P vẫn không thay đổi. Chị T, anh P đã sống ly thân từ đầu năm 2022 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay chị T thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với anh Trương Văn P. Còn về phía anh Trương Văn P không chịu hợp tác làm việc với tòa, cố tình trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Hành vi của anh P thể hiện sự coi thường pháp luật và không có thiện chí trong việc hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Hiện nay, mâu thuẩn vợ chồng của chị T và anh P đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị T xin ly hôn là có cơ sở, phù hợp với Điều 51, Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

[3] Về con chung: Chị T và anh P có 01 con chung tên là Trương Văn T – sinh ngày 24/7/2010. Tại phiên Tòa chị T yêu cầu được nuôi con chung đến 18 tuổi trưởng thành. Xét nguyện vọng xin nuôi con của chị T thì thấy: Chị T hiện nay có việc làm và chỗ ở ổn định, bản thân cháu T trên 9 tuổi có nguyện vọng ở với mẹ.

Hơn nữa, anh P coi thường pháp luật, không có thiện chí hợp tác với tòa để giải quyết vụ án. Do đó, chị T có nguyện vọng xin nuôi con là có căn cứ, đúng pháp luật nên xử giao con chung Trương Văn T – sinh ngày 24/7/2010 cho chị T nuôi dưỡng đến 18 tuổi trưởng thành là phù hợp với Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh Trương Văn P cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai vợ chồng tự giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị T khai không có nên HĐXX không xét.

[6] Về án phí: Án phí LHST: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) xét buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí LHST 300.000 đồng chị Nguyễn Thị T đã nộp theo biên lai thu số 0005824 ngày 28/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thăng Bình.

[7] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam là đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 177, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T, xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Trương Văn P ly hôn.

2. Về con chung: Xử giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi con chung Trương Văn T – sinh ngày 24/7/2010 đến 18 tuổi trưởng thành.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Xử buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng y) án phí LHST, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng y) mà chị T đã nộp theo biên lai thu số 0005824 ngày 28/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thăng Bình.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 244/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:244/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thăng Bình - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về