Bản án về xin ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 42/2022/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022, về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lã Thị L, sinh năm 1988. Trú tại: Thôn B, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Liễu Văn L, sinh năm 1989. Trú tại: Thôn B (T), xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06 tháng 7 năm 2022, bản tự khai và các lời khai tiếp theo chị Lã Thị L trình bày: Chị và anh Liễu Văn L được tự nguyện tìm hiểu, hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương từ tháng năm 2012 trên cơ sở tự nguyện không bị ép buộc, có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ tháng. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống cùng bố, mẹ tại thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tình cảm vợ chồng hạnh phúc. Đến năm 2017 cả hai cùng đi làm Công ty tại tỉnh Bắc Giang, thời gian này anh Liễu Văn L thường xuyên rượu chè, đánh đề, cờ bạc không quan tâm đến gia đình, chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh Liễu Văn L không thay đổi, dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, hay xảy ra mâu thuẫn. Từ năm 2019 đến nay vợ chồng đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Liễu Văn L Về con chung, về tài sản chung và về nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Liễu Văn L vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong biên bản lấy lời khai trình bày: Về quan hệ hôn nhân thống nhất với lời trình bày của chị Lã Thị L, thừa nhận trong quá trình chung sống từ năm 2020 vợ chồng có hay cãi vã, nguyên nhân do anh đi uống rượu với bạn bè dẫn đến thỉnh thoảng cãi nhau, từ tháng 5/2021 đến nay vợ chồng sống ly thân, chỉ liên lạc với nhau khi có công việc cần thiết. Nay xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, chị Lã Thị L xin ly hôn anh không nhất trí.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại Công văn số 503/UBND ngày 18/8/2022 của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn về việc trả lời kết quả xác minh tình trạng hôn nhân, xác nhận chị Lã Thị L và anh Liễu Văn L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn ngày 20/11/2012. Sau khi kết hôn anh, chị sinh sống cùng gia đình chồng tại thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, từ trước đến nay vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Về con chung, tài sản chung, vay nợ chung: không có.

Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tại phiên hoà giải hai bên không thỏa thuận được về toàn bộ nội dung vụ án.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Qua kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến trước khi xét xử Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, tiến hành tố tụng thu thập tài liệu chứng cứ và tống đạt các văn bản, quyết định đúng trình tự thủ tục tố tụng, giải thích quyền trợ giúp pháp lý cho chị Lã Thị L và anh Liễu Văn L nhưng không có ai yêu cầu. Quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Lã Thị L được ly hôn anh Liễu Văn L.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Lã Thị L thuộc trường hợp được miễn án phí nhưng chị không đề nghị được miễn, do vậy chị Lã Thị L phải chịu án phí theo quy định. Quá trình giải quyết vụ án Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan không có kiến nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ tranh chấp trong vụ án là ly hôn. Bị đơn có có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn thôn B (nay là thôn T), xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại khoản khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn Liễu Văn L đã được triệu tập hợp lệ, có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo khoản 1 Điều 227, khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lã Thị L và anh Liễu Văn L có quen biết, được tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, bất đồng quan điểm, dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà chị Lã Thị L vẫn kiên quyết ly hôn. Do đó, có cơ sở xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, chị Lã Thị L xin ly hôn là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[2] Quá trình giải quyết vụ án anh Liễu Văn L thừa nhận trong cuộc sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn từ năm 2020 và sống ly thân từ năm 2021 đến nay, nhưng vẫn mong muốn được đoàn tụ nhưng không có biện pháp đẻ hàn gắn tình cảm vợ chồng, do đó anh yêu cầu được đoàn tụ là không có căn cứ.

[3] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, do vậy được chấp nhận.

[5] Về án phí: Chị Lã Thị L thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, chị Lã Thị L không yêu cầu được miễn, do vậy chị Lã Thị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 53, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; các Điều 39; 147; 227; 228; 235; 264; 267; 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 24; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lã Thị L được ly hôn anh Liễu Văn L

2. Về án phí: Chị Lã Thị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước. Xác nhận đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0006082 ngày 10/8/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.

Án xử công khai sơ thẩm. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về