TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐL, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 08/2024/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố ĐL, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số706/2023 /TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Tuấn Kh, sinh năm: 1988 Trú tại: Số 32 Nam Hồ, Phường A, Thành Phố ĐL, Tỉnh Lâm Đồng Bị đơn: Bà Nguyễn Lê Đăng D, sinh năm: 1996 Trú tại: 15/2 Đồng T, Phường B, Thành Phố ĐL, Tỉnh Lâm Đồng ( Ông Kh, bà D có mặt tại phiên Tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Trần Tuấn Kh trình bày:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà D chung sống và đăng ký kết hôn vào năm 2019, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 9, thành phố ĐL, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng thuê nhà sống ở thành phố ĐL. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh muâu thuẫn. Nguyên nhân do bà D ghen tuông vô cớ. Năm 2020 vì không hợp với khí hậu ĐL nên ông Kh đi Phan Thiết làm du lịch bà D xuống Phan Thiết vợ chồng tiếp tục chung sống và sinh con đầu tại phan Thiết. Vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn nên ông về quê tại Bình Định. Tháng 4/2021 vợ chồng quay lại với nhau và sinh thêm con thứ 2. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, bà D có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Nay tình cảm vợ chồng không còn ông xin được ly hôn.
2/ Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Nguyễn Thị T, sinh 02/10/2019. Trần Khiết B, sinh 31/7/2022. Hiện 2 con đang ở mẹ . Ly hôn, ông xin nuôi con Trần Khiết B giao con Trần Nguyễn Thị T cho bà D nuôi. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Thu nhập của ông không ổn định, vì ông làm nghề môi giới phòng khách sạn, thu nhập từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ/ tháng.
3/ Về tài sản chung: Không có.
4/ Về nợ chung: Không có nợ chung.
Bị đơn bà Nguyễn Lê Đăng D trình bày:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn và chung sống như ông Kh trình bày là đúng. Vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh muâu thuẫn. Nguyên nhân là do người yêu cũ của ông Kh nhắn tin cho bà nên giữa bà và ông Kh xảy ra muâu thuẫn. Ông Kh tìm cớ về Phan Thiết sống và làm việc. Vì thương chồng, bà xuống Phan Thiết sống cùng. Tháng 11/2020 đến tháng 3/2021 bà về ĐL làm kinh doanh rau. Cuối năm 2022 bà có mượn tiền của một người bạn nên có gọi điện với người này. Ngày 15/9/2023 là ngày sinh nhật của bà nên bà và người bạn này có hẹn đi ăn uống, ông Kh đọc được tin nhắn nên ghen tuông vô cớ. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 9/2023cho đến nay. Nay ông Kh xin ly hôn, bà không đồng ý vì bà vẫn còn tình cảm với ông Kh.
2/ Về con chung: Vợ chồng có 2 con như ông Kh trình bày. Hiện con đang ở với bà. Nếu ly hôn bà xin nuôi 2 con, bà yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con 2 con mỗi tháng 7.000.000đ.
3/ Về tài sản chung: Không có.
4/ Về nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa: ông Kh vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với bà D, xin nuôi 01 con . Bà D không đồng ý ly hôn, nếu ly hôn bà xin nuôi 2 con, không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nươi con.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Kh, cho ông Kh bà D được ly hôn. Về con chung giao 2 con cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, bà D không yêu c ầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung nợ chung không có nên không đề cập.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả trình bày tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: ông Kh và bà D chung sống và đăng ký kết hôn vào năm 2019, tại Ủy ban nhân dân phường 9, thành phố ĐL,tỉnh Lâm Đồng, có tổ chức lễ cưới. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh muâu thuẫn. Nguyên nhân theo ông Kh là do tính tình không hợp nhau. Vì muâu thuẫn nên ông thường xuyên bỏ đi sinh sống và làm ăn nới khác. Thời gian vợ chồng sống ly thân bà D có nhắn tin thể hiện có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Hiện vợ chồng sống ly thân. Nay tình cảm không còn nên ông xin được ly hôn. Bà D thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra muâu thuẫn, ông Kh ghen tuông vô cớ, vì còn thương chồng nên bà không đồng ý ly hôn.
[2] Xét giữa vợ chồng ông Kh, bà D đã xảy ra mâu thuẫn một thời gian dài, dù cả hai đã cố gắn hàn gắng tình cảm vợ chồng nhưng vẫn không thật sự hạnh phúc. Vợ chồng nhiều lần ly thân, ông Kh nghi ngờ bà D có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Xét mục đích hôn nhân không đạt được, nếu có duy trì hôn nhân cũng không có hạnh phúc, nên xử cho ông Kh và bà D được ly hôn là phù hợp với quy định pháp luật.
[3] Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Trần Nguyễn Thị T, sinh 02/10/2019 và Trần Khiết B, sinh 31/7/2022. Hiện 2 con đang ở với bà D. Ông Kh yêu cầu mỗi người nuôi 01 con, bà D yêu cầu được nuôi 02 con nếu Tòa xử cho ly hôn.
Xét con Trần Nguyễn Thị T, sinh 02/10/2019 và Trần Khiết B, sinh 31/7/2022 còn rất nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, hiện 2 con đang ở với mẹ.
Để tránh ảnh hưởng tâm lý của trẻ và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con nên xử giao 2 con cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con: bà D không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
[4] Về tài sản chung : Không có [5] Về nợ chung: Không có [6] Về án phí: Ông Trần Tuấn Kh phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ các Điều 51, 56, 57,81, 82, 83,84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn ông Trần Tuấn Kh đối với bị đơn bà Nguyễn Lê Đăng D. Cho ông Trần Tuấn Kh và bà Nguyễn Lê Đăng D được ly hôn.
2.Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Lê Đăng D trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Nguyễn Thị T, sinh 02/10/2019 và con Trần Khiết B, sinh 31/7/2022.
- Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
3- Về án phí: Ông Trần Tuấn Kh phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình (được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí ông Kh đã nộp theo biên lai thu số 0002902 ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố ĐL).
Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Trường hợp Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về xin ly hôn số 08/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 08/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về