Bản án về xin ly hôn số 08/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-PT NGÀY 08/09/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 8 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 13/2021/TLPT-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2021 về việc xin ly hôn.

Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 217/2021/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 12/2021/QĐ-PT ngày 17 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đinh Công K, sinh năm 1975. Địa chỉ: Tổ X, Phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị Minh Th, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tổ Y, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Có mặt.

3. Người kháng cáo: Chị Phạm Thị Minh Th là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22/12/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Đinh Công K trình bày:

Anh và chị Phạm Thị Minh Th tự nguyện kết hôn ngày 12/02/2018, có đăng ký kết hôn ngày 12/02/2018 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân vợ chồng thường bất đồng về quan điểm, không hợp nhau về tính cách, thường xuyên cãi cọ và xích mích với nhau; do không thể tiếp tục chung sống nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Đến nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa; anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Phạm Thị Minh Th.

Về con chung: Anh và chị Th có 02 con chung (hai cháu sinh đôi) là Đinh Thế Nhân S và Đinh Thăng Danh N cùng sinh ngày 01/8/2018. Do hai cháu đều đang còn nhỏ nên anh nhất trí để chị Th trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con cùng chị Th mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi các cháu trưởng thành. Nếu sau này chị Th không có điều kiện nuôi dưỡng thì anh K xin được nuôi cả hai con mà không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con cùng anh.

Tài sản chung và nợ chung: vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản riêng: Không có.

Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án đã thông báo nhiều lần cho chị Th biết việc anh Đinh Công K khởi kiện xin ly hôn và triệu tập bị đơn đến làm việc, hòa giải, cung cấp chứng cứ và tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng chị Th không có mặt. Do không tống đạt được văn bản tố tụng cho chị Th nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành niêm yết văn bản tố tụng và xét xử vắng mặt chị Th.

Tại bản án sơ thẩm số 217/2021/HNGĐ-ST ngày 25/6/2021, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã quyết định:

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Đinh Công K được ly hôn chị Phạm Thị Minh Th.

2. Về phần con chung: Giao cả hai cháu là Đinh Thế Nhân S và cháu Đinh Thăng Danh N cùng sinh ngày 01/8/2018 cho chị Phạm Thị Minh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Chấp nhận anh Đinh Công K tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Phạm Thị Minh Th mỗi tháng 3.000.000đ; thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 7/2021 cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung: Tòa án không xem xét do anh Đinh Công K xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này chị Phạm Thị Minh Th có yêu cầu, Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Anh Đinh Công K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng và 300.000đ án phí cấp dưỡng định kỳ được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0001485 ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Anh Đinh Công K còn phải nộp tiếp 300.000đ.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh Đinh Công K có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn chị Phạm Thị Minh Th vắng mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/7/2021, bị đơn chị Phạm Thị Minh Th kháng cáo không nhất trí toàn bộ nội dung bản án số: 217/2021/HNGĐ-ST ngày 25/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại; đề nghị Tòa án yêu cầu anh Đinh Công K cấp dưỡng hằng tháng cho cả hai con với mức 4.000.000đ cho đến khi cả hai cháu trưởng thành; đề nghị Tòa án xem xét khoản nợ chung của hai vợ chồng.

Tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm:

Chị Phạm Thị Minh Th rút một phần kháng cáo về yêu cầu xem xét khoản nợ chung của vợ chồng; giữ nguyên các nội dung kháng cáo: đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, yêu cầu anh Đinh Công K cấp dưỡng hằng tháng cho cả con chung với mức 4.000.000đ cho đến khi cả hai cháu trưởng thành.

Anh Đinh Công K không nhất trí với nội dung kháng cáo của chị Th về đề nghị tăng mức cấp dưỡng nuôi con vì mức thu nhập hàng tháng của anh còn thấp, hơn nữa anh đang phải thi hành việc cấp dưỡng nuôi con của bản án khác, do đó anh đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của chị Phạm Thị Minh Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 217/2021/HNGĐ-ST ngày 25/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La. Về án phí: chị Phạm Thị Minh Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Theo đơn khởi kiện ngày 22/12/2020, anh Đinh Công K yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chị Phạm Thị Minh Th. Xét bị đơn chị Phạm Thị Minh Th cư trú tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La nên Tòa án nhân dân thành phố Sơn La thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn theo đơn khởi kiện của anh K là có căn cứ, đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án cấp sơ thẩm:

Sau khi thụ lý vụ án, ngày 05/5/2021, Tòa án cấp sơ thẩm có Thông báo số 117/TB-TA và giấy triệu tập để thông báo và triệu tập các đương sự tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 11/5/2021. Thông báo và giấy triệu tập nêu trên được Tổ trưởng tổ dân phố tống đạt cho chị Phạm Thị Minh Th tuy nhiên chị Th không nhận giấy triệu tập. Ngày 13/5/2021, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La có thông báo triệu tập các đương sự tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 21/5/2021, chị Th cũng không nhận giấy triệu tập và không ký biên bản giao nhận. Tại phiên họp ngày 11/5/2021 và phiên họp ngày 21/5/2021, chị Th không có mặt, nguyên đơn anh Đinh Công K có mặt nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án không tiến hành hòa giải được nên chỉ tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, đồng thời có biên bản về việc không hòa giải được là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 207, Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự. Biên bản phiên họp đã được Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt hợp lệ cho chị Phạm Thị Minh Th.

[1.3] Về việc xét xử vắng mặt bị đơn của Tòa án cấp sơ thẩm:

Ngày 21/5/2021, Tòa án cấp sơ thẩm có Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2021/QĐXXST-HNGĐ và giấy triệu tập để triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất vào ngày 09/6/2021. Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã đến gia đình chị Phạm Thị Minh Th để giao các văn bản tố tụng nêu trên nhưng chị Thu và gia đình không hợp tác, không nhận các văn bản tố tụng nên Tòa án cấp sơ thẩm đã lập biên bản về việc đương sự từ chối nhận văn bản tố tụng có xác nhận của tổ trưởng dân phố và chính quyền địa phương, đồng thời tiến hành các thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng nêu trên theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa ngày 09/6/2021, do chị Th vắng mặt nên Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa lần thứ hai vào ngày 25/6/2021. Quyết định hoãn phiên tòa và thủ tục triệu tập lại được Tòa án cấp sơ thẩm giao cho chị Th nhưng chị Th không ký biên bản giao nhận. Tòa án cấp sơ thẩm đã lập biên bản về việc đương sự từ chối nhận văn bản tố tụng có xác nhận của tổ trưởng dân phố và chính quyền địa phương đồng thời tiến hành các thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng nêu trên theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa ngày 25/6/2021, do chị Thu vắng mặt không có lý do nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt chị Thu theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[1.4] Về việc giao bản án cho bị đơn vắng mặt:

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/7/2021, Tòa án cấp sơ thẩm đã giao bản án sơ thẩm trực tiếp cho chị Phạm Thị Minh Th là đúng theo quy định tại Điều 269 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Xem xét đối với kháng cáo của chị Phạm Thị Minh Th:

[2.1] Xét kháng cáo của chị Phạm Thị Minh Th trong hạn luật định và chị Thu đã nộp tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm nên được xem xét theo quy định của pháp luật.

[2.2] Đối với nội dung kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm, xét xử lại theo thủ tục tố tụng để đảm bảo quyền và lợi ích của bị đơn.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, bị đơn chỉ có đơn xin tạm hoãn thủ tục ly hôn ngày 27/4/2021 với lý do chờ con thực hiện xong ca phẫu thuật. Ngày 28/4/2021, Tòa án cấp sơ thẩm đã có quyết định yêu cầu bị đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ (bản tự khai, các tài liệu liên quan đến bệnh án điều trị kèm theo hóa đơn viện phí, chỉ định của bác sĩ) nhưng bị đơn không cung cấp.

Ngày 12/7/2021, chị Th có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm, nội dung đơn kháng cáo thể hiện chị Th được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập 02 lần nhưng không đến tham gia phiên tòa. Như vậy, việc chị Th vắng mặt tại phiên tòa là không có lý do chính đáng vì không có đơn xin tạm hoãn phiên tòa ngày 09/6/2021 và ngày 25/6/2021. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã thực hiện niêm yết văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Do đó, có đủ cơ sở xác định chị Th đã nhận được thông báo quyết định đưa vụ án ra xét xử, các văn bản tố tụng và bản án sơ thẩm nên quyền và lợi ích hợp pháp của chị Th tại cấp sơ thẩm không bị xâm phạm. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn đề nghị hủy bản sơ thẩm.

[2.3] Đối với nội dung kháng cáo về việc yêu cầu anh Đinh Công K cấp dưỡng hằng tháng cho hai con là 4.000.000đ cho đến khi hai cháu trưởng thành, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Hiện tại, mức thu nhập hằng tháng của anh Đinh Công K là 14.789.829đ/1 tháng (theo công văn số: 1024/CT-TCCB ngày 25/8/2021 của Cục Thuế tỉnh Sơn La) nhưng anh K đang phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi 02 con chung với chị Ngô Thị H, theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số:

45/2013/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2013 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, với mức cấp dưỡng hàng tháng là 5.000.000 đồng/1 tháng/1 cháu.

Với mức thu nhập hàng tháng hiện nay của anh Kiên, để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của cuộc sống cá nhân và thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên anh K có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi 02 con chung với chị Phạm Thị Minh Th mức 3.000.000đ/tháng là phù hợp.

Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của chị Phạm Thị Minh Th đề nghị tăng mức cấp dưỡng nuôi con lên 4.000.000đ/tháng, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về mức cấp dưỡng nuôi con.

[2.4] Đối với nội dung kháng cáo về việc đề nghị Tòa án xem xét khoản nợ chung của hai vợ chồng Tại phiên tòa phúc thẩm chị Th đã rút kháng cáo về việc giải quyết khoản nợ chung, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí Do kháng cáo không được chấp nhận nên chị Phạm Thị Minh Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm theo quy định.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm giải quyết về quan hệ hôn nhân và án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Giữ nguyên Quyết định của bản án sơ thẩm số 217/2021/HNGĐ-ST ngày 25/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La như sau:

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Đinh Công K được ly hôn chị Phạm Thị Minh Th.

2. Về phần con chung: Giao cả hai cháu là Đinh Thế Nhân S và cháu Đinh Thăng Danh N cùng sinh ngày 01/8/2018 cho chị Phạm Thị Minh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi các cháu trưởng thành đ ủ 18 tuổi.

Chấp nhận anh Đinh Công K tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Phạm Thị Minh Th mỗi tháng 3.000.000đ; thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 7/2021 cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung: Tòa án không xem xét do anh Đinh Công K xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này chị Phạm Thị Minh Th có yêu cầu, Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Anh Đinh Công K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng và 300.000đ án phí cấp dưỡng định kỳ được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0001485 ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Anh Đinh Công K còn phải nộp tiếp 300.000đ.

Chị Phạm Thị Minh Th phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm, được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0002950 ngày 13 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Sơn La.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 08/9/2021

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 08/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về